Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị D và anh D1 số 84/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ D VÀ ANH D1

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 141/2022/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Chế Thị D, sinh năm 1988; ĐKTT: ấp 4, xã T, huyện M, tỉnh Đồng Tháp. Chổ ở hiện nay: ấp T, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Cao Hoàng D1, sinh năm 1989; Địa chỉ: 418, ấp P, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị D có mặt, anh D1 vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 28/3/2022, bản khai ngày 29/4/2022, biên bản ghi ý kiến ngày 27/6/2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Chế Thị D trình bày:

Chị và anh Cao Hoàng D1 chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện. Sau khi cưới, vợ chồng cùng nhau đi làm xa được khoảng 02 năm thì về xã Châu Hòa sống. Thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh D1 có quen người phụ nữ khác. Hiện tại, chị và anh D1 mạnh ai nấy sống, không quan tâm đến nhau, anh D1 cũng không quan tâm đến chị và không chăm sóc con, không phụ lo cho con. Hiện tại, chị nhận thấy hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh D1.

Trong thời gian chung sống, chị và anh D1 có 01 con chung tên Cao Hoàng Kỳ Hân, sinh ngày 13/01/2020, đang sống chung với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Trước đây, khi khởi kiện, chị yêu cầu Tòa án buộc anh Cao Hoàng D1 cấp dưỡng cho con theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, nay chị thay đổi yêu cầu khởi kiện, chị không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng cho con.

Chị và anh D1 không có tài sản chung, không có nợ chung.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh D1 đều vắng mặt không lý do và không có văn bản trình bày ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến về tố tụng và về nội dung:

Vế tố tụng:

Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Chế Thị D. Cụ thể:

- Về hôn nhân: Chị Chế Thị D được ly hôn với anh Cao Hoàng D1.

- Về con chung: Chị Chế Thị D được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Cao Hoàng Kỳ Hân, sinh ngày 13/01/2020, đến khi con đủ 18 tuổi.

Ghi nhận chị Chế Thị D không yêu cầu anh Cao Hoàng D1 cấp dưỡng cho con.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Anh D1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị D trình bày không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Chế Thị D khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Cao Hoàng D1. Anh D1 là bị đơn trong vụ án, cư trú tại ấp Phú Tân, xã Châu Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Anh D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D1.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Chế Thị D và anh Cao Hoàng D1 chung sống với nhau vào năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của chị D và anh D1 được xem là hợp pháp. Tuy nhiên, chị D cho rằng anh D1 đã có quen người phụ nữ khác, chị và anh D1 mạnh ai nấy sống, anh D1 không quan tâm, chăm sóc vợ, con. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn với anh D1.

Qua xác minh được biết nguyên nhân chị D và anh D1 mâu thuẫn là do anh D1 đi làm nhưng không dành dụm để lo cho gia đình, chị D nhiều lần khuyên nhưng anh D1 vẫn không thay đổi.

Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện của chị D, Tòa án đã tiến hành thông báo cho anh D1 tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mục đích hòa giải cho chị D và anh D1 đoàn tụ nhưng anh D1 vắng mặt, không có ý kiến.

Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị D và anh D1 đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D để giải quyết cho chị D được ly hôn anh D1.

[3] Về con chung: Chị D khai chị và anh D1 có 01 con chung tên Cao Hoàng Kỳ Hân, sinh ngày 13/01/2020. Chị D yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh D1 cấp dưỡng cho con.

Hội đồng xét xử xét thấy con chung của chị D và anh D1 dưới 36 tháng tuổi, theo quy định pháp luật thì chị D được quyền nuôi dưỡng. Hiện tại, con chung đang sống chung với chị D. Do đó, để đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống của con chung thì cần giao con chung cho chị D được tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” nhưng chị D không có yêu cầu anh D1 cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị D trình bày chị và anh D1 không có tài sản chung.

[5] Về nợ chung: Chị D trình bày chị và anh D1 không có nợ chung.

[6] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0007156 ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Chế Thị D.

- Về hôn nhân: Chị Chế Thị D được ly hôn với anh Cao Hoàng D1.

- Về con chung: Chị Chế Thị D được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Cao Hoàng Kỳ Hân, sinh ngày 13/01/2020, đến khi con đủ 18 tuổi.

Ghi nhận chị Chế Thị D không yêu cầu anh Cao Hoàng D1 cấp dưỡng cho con.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Anh Cao Hoàng D1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Chế Thị D trình bày chị và anh Cao Hoàng D1 không có tài sản chung, không có nợ chung.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Chế Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0007156 ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Chị D đã nộp đủ án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị D và anh D1 số 84/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:84/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về