TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 21 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 222/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021 về việc ly hôn, t/c về nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 2 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04/3/2022 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Anh Trần Văn Đ - Sinh năm 1987 KHTT: Khu 4, B, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện trú tại: Thôn B, xã H, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
2.Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1990 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu 4, B, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương; Hiện cư trú tại Nhật Bản. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn B – Sinh năm 1967. Địa chỉ: KDC4 B, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trần Văn Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thị xã C (nay là Thành phố C), tỉnh Hải Dương, ngày 09/12/2010. Đến năm 2011 anh Đ đi lao động ở nước ngoài, thỉnh thoảng có về Việt Nam thăm gia đình, thời gian đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cãi nhau. Năm 2016 chị H đi lao động ở Nhật Bản và vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng. Năm 2018 anh Đ về Việt Nam sinh sống, còn chị H vẫn ở nước ngoài cho đến nay và vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay anh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung là Trần Nguyễn Quốc A, sinh ngày 05/10/2011 và Trần Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/6/2014, hiện cả hai con chung đang ở với ông ngoại là Nguyễn Văn B. Anh Đ có quan điểm nhất trí để chị H nuôi con và nhất trí để ông Bình tạm nuôi các con của anh và chị H trong thời gian chị H ở nước ngoài. Vợ chồng thỏa thuận về cấp dưỡng cho con nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại đơn đề nghị của cháu Trần Nguyễn Quốc A và Trần Nguyễn Tuấn A đều có nguyện vọng được ở với mẹ là Nguyễn Thị H và ông bà ngoại.
Tại biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn B là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, thể hiện: Chị H hiện đang sinh sống tại Nhật Bản, gia đình ông không biết địa chỉ cụ thể của chị H ở nước ngoài. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh Đ và chị H là do vợ chồng không hòa hợp, không có sự tin tưởng, tôn trọng nhau. Ngay cả thời gian anh Đ và chị H ở nước ngoài cùng nhau nhưng không có sự quan tâm, chia sẻ. Nay anh Đ có đơn ly hôn chị H, gia đình ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trường hợp chị H được nuôi con thì gia đình ông nhất trí tạm nuôi các cháu trong thời gian chị H ở nước ngoài. Gia đình ông B cũng thường xuyên liên lạc với chị H qua điện thoại và đã thông báo cho chị H biết việc anh Đ khởi kiện ly hôn. Chị H có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung, chị H đề nghị được nuôi dưỡng cả hai con chung và yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật. Trong thời gian chị H ở nước ngoài có ủy quyền cho ông B tạm nuôi các con của chị. Về tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị H đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Tòa án xác minh tại địa phương nơi anh Đ, chị H sinh sống thể hiện: Trong thời gian sinh sống với nhau do vợ chồng không hòa hợp nên xảy ra mâu thuẫn, không có sự tin tưởng, chia sẻ, quan tâm tới nhau. Nay anh Đ có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa. Anh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng quy định tại Điều 70,71,73 BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật HNGĐ, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Anh Trần Văn Đ và chị Nguyễn Thị H ly hôn. Về con chung: Giao cho chị Huệ trực tiếp nuôi dưỡng 2 con chung là Trần Nguyễn Quốc A và Trần Nguyễn Tuấn A. Anh Đ cấp dưỡng cho mỗi con là 1.500.000đ/ tháng. Giao cho ông Nguyễn Văn B tiếp tục nuôi dưỡng 2 cháu trong thời gian chị Huệ ở nước ngoài. Án phí: Anh Đ phải nộp 300.000đ án phí ly hôn và 300.000đ cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Văn Đ sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Nguyễn Thị H có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở KDC 4 B, phường P, thành phố C, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Nhật Bản, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đ và gia đình chị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị H ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, gia đình ông B vẫn thường xuyên liên lạc với chị H nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho chị H biết việc anh Đ đề nghị giải quyết ly hôn và các thủ tục tố tụng khác. Gia đình đã nhận các văn bản tố tụng và đã thông báo cho chị H biết. Tại phiên tòa, chị H vắng mặt lần thứ hai và đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Đ, ông B đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn Đ và chị Nguyễn Thị H kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, thị xã C (nay là Thành phố C), tỉnh Hải Dương, ngày 09/12/2010 là hôn nhân hợp pháp. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hòa hợp, không có sự tin tưởng, quan tâm chia sẻ lẫn nhau. Thông qua gia đình, chị H thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Đ ly hôn chị H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về quan hệ nuôi con: Anh Trần Văn Đ và chị Nguyễn Thị H có hai con chung là Trần Nguyễn Quốc Anh, sinh ngày 05/10/2011 và Trần Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/6/2014, hiện cả hai con chung do ông Nguyễn Văn B chăm sóc. HĐXX xét thấy các con chung đã ở với ông ngoại từ lâu, được ăn học đầy đủ và ổn định cuộc sống. Anh Đ nhất trí để chị H nuôi con và tạm giao các con chung cho ông ngoại nuôi dưỡng. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của đương sự, giao cho chị H nuôi dưỡng cả hai con chung và trong thời gian chị H ở nước ngoài cần tạm giao cho ông Nguyễn Văn B nuôi các cháu. Về cấp dưỡng cho con, anh Đ có quan điểm để vợ chồng tự thỏa thuận, trong khi đó chị H có yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật. HĐXX xét thấy, sau khi ly hôn thì việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung vẫn là quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con cái. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Anh Đ là người lao động tự do (lái xe), có sức khỏe, thu nhập và không trực tiếp nuôi con nên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con với số tiền là 1.500.000đ/tháng/1 con chung, cả hai con chung là 3.000.000đ/tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 3/2022 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi). Như vậy, là phù hợp với quy định của các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của các con chung.
Nếu có căn cứ cho rằng chị H không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh Đ có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đ và chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật và được giải quyết trong vụ án khác.
[3]. Về án phí: Anh Trần Văn Đ là nguyên đơn và có nghĩa vụ cấp dưỡng nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và án phí về cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn Đ ly hôn chị Nguyễn Thị H
2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Nguyễn Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con chung là Trần Nguyễn Quốc A, sinh ngày 05/10/2011 và Trần Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/6/2014.
Buộc anh Trần Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là Trần Nguyễn Quốc A và Trần Nguyễn Tuấn A mỗi người số tiền là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng)/tháng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 3/2022 cho đến khi các con chung thành niên (đủ 18 tuổi).
Không ai được cản trở anh Trần Văn Đ thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền như đã tuyên nếu người phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất được tính theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.
Tạm giao cho ông Nguyễn Văn B nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Trần Nguyễn Quốc A, sinh ngày 05/10/2011 và Trần Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 08/6/2014 trong thời gian chị Nguyễn Thị H ở nước ngoài.
3. Về án phí: Anh Trần Văn Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2012/0004297 ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
Buộc anh Trần Văn Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí về cấp dưỡng.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con con chung khi ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 33/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về