Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con con chung khi ly hôn số 104/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 104/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 38/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 về việc ly hôn, t/c nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 77/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06/6/2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Tăng Thị H– sinh năm 1990 Địa chỉ: Số 23 ngõ 106 N, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Vũ Đình T– Sinh năm 1986 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn B, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương. Hiện cư trú, làm việc tại: Công ty cổ phần N, tỉnh C, Nhật Bản. Vắng mặt.

3. Người đại diện hợp pháp của anh Vũ Đình T: Ông Vũ Đình L – Sinh năm 1956. Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương. Là người đại diện theo ủy quyền giao, nhận các văn bản tố tụng (theo giấy ủy quyền lập ngày 07/2/2022). Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Tăng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vũ Đình T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương, ngày 28/4/2018. Sau khi kết hôn chị và anh T tiếp tục sang Nhật Bản lao động. Sau đó 1 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị không muốn sinh con ngay vì còn phải lao động dành dụm tiền để lo cho gia đình con cái sau này, trong khi đó anh T lại muốn sinh con. Cuối năm 2018 chị mang bầu, không đi làm được nên kinh tế khó khăn, do vậy chị đã về Việt Nam. Khi chị sinh con thì mâu thuẫn vợ chồng càng căng thẳng, không tin tưởng nhau, dẫn đến áp lực và chị bị trầm cảm. Từ đó tới nay vợ chồng không còn quan tâm tới nhau nữa mặc dù hai bên cố gắng hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh T theo quy định.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Vũ Xuân Ph – sinh ngày 07/12/2018 hiện đang ở với chị. Chị Hđề nghị được nuôi con. Về cấp dưỡng chị và anh Tthỏa thuận anh Tsẽ cấp dưỡng cho con số tiền là 5.000.000đ/tháng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản trình bày ý kiến của anh T xác định: Về quan hệ hôn nhân như Chị H trình bày. Vợ chồng mâu thuẫn là do kinh tế khó khăn, Chị H không muốn sinh sống ở gia đình anh vì vậy mâu thuẫn càng căng thẳng, mặc dù anh cũng cố gắng để hàn gắn quan hệ hôn nhân nhưng không có kết quả. Nay Chị Hcó đơn ly hôn, anh T đề nghị Tòa án xem xét giải quyết. Về con chung anh Tnhất trí để Chị H tiếp tục nuôi con và có trách nhiệm cấp dưỡng cho con là 5.000.000đ/tháng trong thời gian anh đang lao động ở Nhật Bản. Trường hợp Chị Hkết hôn với người khác thì phải giao con cho anh nuôi dưỡng. Về tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa. Chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Chị H đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện. Anh T vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng quy định tại Điều 70,71,73 BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật HNGĐ, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Tăng Thị H ly hôn anh Vũ Đình T. Về con chung: Giao cho Chị H nuôi dưỡng con chung là Vũ Xuân Ph – sinh ngày 07/12/2018. Chấp nhận sự thỏa thuận của chị H, anh T, Anh T phải cấp dưỡng cho con với số tiền 5.000.000đ/tháng. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, anh T phải chịu án phí về cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Tăng Thị H sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Vũ Đình T có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T đã ủy quyền cho ông Vũ Đình L giao, nhận các văn bản tố tụng. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông Luyện để thông báo cho anh Tbiết. Tại phiên tòa Chị Hvắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh T vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Tăng Thị H và anh Vũ Đình T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện N, tỉnh Hải Dương, ngày 28/4/2018 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị và anh T tiếp tục sang Nhật Bản lao động thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống vợ chồng và trong làm ăn kinh tế, do vậy chị đã về Việt Nam sinh sống và sinh con. Khi chị sinh con thì mâu thuẫn vợ chồng càng căng thẳng, không tin tưởng nhau. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị Hvà anh Tđã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và các đương sự cũng xác định tình cảm không còn nên nhất trí ly hôn. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho Chị H ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Tăng Thị H và anh Vũ Đình T có một con chung là Vũ Xuân Ph – sinh ngày 07/12/2018. HĐXX xét thấy con chung còn nhỏ và đang ở với Chị H và cần sự chăm sóc của người mẹ hơn. Anh T đang ở nước ngoài nên nhất trí để Chị H nuôi con. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của đương sự, giao cho chị H nuôi dưỡng con chung là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của anh T cấp dưỡng cho con với số tiền là 5.000.000đ/tháng trong thời gian anh T ở nước ngoài. Như vậy, là phù hợp với quy định của các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Trong trường hợp có sự thay đổi về mức cấp dưỡng thì anh Tuấn, Chị H có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thay đổi mức cấp dưỡng cho con. Nếu có căn cứ cho rằng Chị H không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh T có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh T xác định tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Tăng Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), anh Vũ Đình Tphải cấp dưỡng cho con nên chịu án phí về cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Tăng Thị H ly hôn anh Vũ Đình T

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Tăng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Vũ Xuân Ph – sinh ngày 07/12/2018.

Về cấp dưỡng cho con: Chấp nhận sự tự nguyện của anh Vũ Đình T cấp dưỡng cho con Vũ Xuân Ph số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng)/tháng. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 6/2022 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).

Không ai được cản trở anh Vũ Đình T thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án về khoản tiền như đã tuyên nếu người phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất được tính theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Chị Tăng Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004968 ngày 02 tháng 3 năm 2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

Anh Vũ Đình T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí về cấp dưỡng.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con con chung khi ly hôn số 104/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:104/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về