Bản án về ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 06 năm 2021 về vụ kiện: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 07 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Út L, sinh năm 1974 (có mặt).

Địa chỉ: ấp K 2B, xã T A, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

- Bị Đơn: Anh Trần Văn D, sinh năm 1973 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp K 2B, xã T A, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Út L trình bày: tôi và anh Trần Văn D chung sống với nhau vào năm 1992, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn trễ hạn vào ngày 25/09/2018 tại UBND xã Tân An, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Trước khi chung sống, tôi và anh D có quen biết và có tìm hiểu nhau khoảng 03 tháng và đi đến hôn nhân, hôn nhân tự nguyện không cưỡng ép.

Trong quá trình chung sống thời gian đầu có hạnh phúc, đến năm 2010 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh D không lo làm ăn, chỉ biết ăn chơi, cờ bạc, không quan tâm đến cuộc sống vợ con, tôi có khuyên bảo anh D nhiều lần nhưng anh D không nghe. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng đã đổ vỡ, cuộc sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung gồm:

1/ Cháu Trần Thị D, sinh ngày 14/06/1993, cháu hiện đã trưởng thành.

2/ Cháu Trần Văn G, sinh ngày 19/02/1996, cháu hiện đã trưởng thành.

3/ Cháu Trần Thị Kim T, sinh ngày 03/07/2000, cháu hiện đã trưởng thành.

- Về tài sản chung: vợ chồng tự thỏa thuận.

- Về phần nợ chung: vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại phiên tòa chị Út L yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: tôi xin được ly hôn với anh Trần Văn D.

Về quan hệ con chung: Các con đã trưởng thành.

Về quan hệ tài sản chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Trần Văn D trình bày: Tòa án đã tống đạt các văn bản cho anh Trần Văn D theo quy định của pháp luật nhưng tại phiên tòa hôm nay anh D vẫn vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ kiện Ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015. Mặt khác đây là vụ kiện Ly hôn không có yếu tố nước ngoài nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn D với tư cách là bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh D vắng mặt không lý do, trước đó Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn anh Trần Văn D, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà bị đơn không có yêu cầu phản tố vắng mặt thì Tòa án tiến hành xử vắng mặt họ”. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D là phù hợp theo quy định pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét lời yêu cầu của chị Út L về quan hệ hôn nhân, chị xin được ly hôn với anh Trần Văn D là có cơ sở chấp nhận vì theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Xét thấy do tình trạng hôn nhân giữa chị Út L và anh D hiện đang rất trầm trọng, nguyên nhân là do anh D không lo làm ăn, chỉ biết ăn chơi, cờ bạc, không quan tâm đến cuộc sống vợ con, chị Út L có khuyên bảo anh D nhiều lần nhung anh D không nghe. Từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy lời yêu cầu của chị Út L xin được ly hôn với anh D được Tòa án chấp thuận.

[4] Về quan hệ con chung: các con đã trưởng thành

[5] Về quan hệ tài sản chung và n chung: Do chị Út L và anh D tài sản chung tự thỏa thuận và không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Út L phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0008374 ngày 18/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị Út L đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử;

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Út L và anh Trần Văn D được ly hôn.

2. Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị Út L nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0008374 ngày 18/05/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị Út L đã nộp đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Báo cho chị Nguyễn Thị Út L biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho anh Trần Văn D biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 47/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về