Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 11 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 211/2021/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2021, về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/9/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1983 Địa chỉ: Tổ 10, phường H, Thành phố H. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Trung H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Tổ 10, phường H, Thành phố H. Vắng mặt.

- Người làm chứng: ông Lê Minh H, sinh năm 1969 (Là anh trai ruột của anh H); địa chỉ: số nhà 55, Tổ 10, phường H, Thành phố H, tỉnh H. Vắng mặt.

Chị Lê Thị H, sinh năm 1977 (là em gái ruột của anh H); địa chỉ: số nhà 57, Tổ 10, phường H, Thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và các bản khai, nguyên đơn trình bày:

Ngày 05/7/2021, chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1983; Địa chỉ: Tổ 10, Phường H, Thành phố H, tỉnh H nộp đơn xin ly hôn với anh Lê Trung H, sinh năm 1975, cùng địa chỉ với nội dung: Ngày 18/01/2005, chị Nguyễn Thị Kim T và anh Lê Trung H kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố H, tỉnh H. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn từ lâu, do anh H không tu chí làm ăn, không chăm lo kinh tế gia đình, thậm chí còn đánh chị T và mâu thuẫn với bố mẹ bên vợ. Ngoài ra anh H thường ra ngoài uống rượu không hay về nhà ăn cơm với vợ con; tình cảm vợ chồng anh H không thương yêu chị T cho lắm và rất hờ hững. Chị T và anh H đã sống ly thân khoảng 02 năm nay; anh H không hỏi han quan tâm gì tới chị T nữa và đi làm ăn xa ở đâu không rõ địa chỉ, chỉ thấy thỉnh thoảng liên lạc với con. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị T có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố H giải quyết cho chị T được ly hôn với anh H.

Về con chung: chị T và anh H có 01 con gái chung, tên là Lê Hồng N, sinh ngày 14/01/2007; Hiện nay con đang ở với mẹ. Nguyện vọng của chị T là muốn được nuôi con, chưa yêu cầu Tòa án giải quyết việc anh H cấp dưỡng nuôi con chung theo pháp luật. Nguyện vọng của con gái Lê Hồng N cũng mong muốn được ở với mẹ.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị T khai trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên.

2. Ý kiến của bị đơn:

Sau khi thụ lý đơn khởi kiện của chị T, Tòa án đã tiến hành thông báo triệu tập đương sự, nhưng anh Lê Trung H liên tục vắng mặt không có lý do. Theo đề nghị của chị T, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương.

3. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ:

Chính quyền địa phương và anh em ruột của anh H sinh sống ở liền kề nhà anh H, chị T cho biết: vợ chồng chị T, anh H có hộ khẩu thường trú và cư trú tại Tổ 10, Phường H, trong căn nhà thuê không có số nhà. Anh Lê Trung H là lao động tự do, anh H đi làm ăn xa không biết đến khi nào về; thỉnh thoảng thấy có thông tin qua mạng xã hội nhưng cũng không biết số điện thoại và địa chỉ liên hệ. Hiện chỉ có chị T và con gái ở nhà.

4. Những nội dung thống nhất, không thống nhất: vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Khoản 1, 4 - Điều 207 - Bộ luật tố tụng dân sự.

5. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

*/ Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đã bảo đảm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tham gia tố tụng của nguyên đơn đã thực hiện đúng với quy định pháp luật. Việc tham gia tố tụng của bị đơn anh H là chưa đúng; các thủ tục tố tụng về việc cấp, tống đạt, niêm yết văn bản tố tụng cũng đã bảo đảm quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Phiên tòa xét xử vắng mặt anh H đã bảo đảm quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

*/ Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: căn cứ thực trạng hôn nhân giữa vợ chồng chị T và anh H đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Điều 51, 56 - Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị T được ly hôn với anh Lê Trung H.

- Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 58, 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình giao con Lê Hồng N, sinh ngày 14/01/2007 cho chị Nguyễn Thị Kim T trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đề cập giải quyết vì chị T chưa có yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung theo pháp luật.

- Về tài sản chung, công nợ chung: chị T khai không có tài sản chung, công nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

- Về án phí và quyền kháng cáo: đề nghị Hội đồng xét xử tuyên theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và thẩm tra công khai tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: chị Nguyễn Thị Kim T và anh Lê Trung H đều có Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú tại: Tổ 10, phường H, thành phố H, tỉnh H; nay chị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn - đây là vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh H theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về sự vắng mặt của đương sự: do các văn bản tố tụng không thể giao được cho anh Hiếu; Tòa án đã niêm yết công khai giấy triệu tập, thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Chị Thoa có đơn đề nghị không hòa giải và đưa vụ án ra xét xử. Tòa án ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST-HN ngày 22/9/2021. Tại phiên tòa lần thứ nhất, anh H vắng mặt, Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa và niêm yết công khai quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-ST ngày 12/10/2021 theo quy định của pháp luật. Trước khi niêm yết đều xác minh làm rõ sự vắng mặt của anh H tại địa phương. Như vậy đã bảo đảm đúng các quy định tại Điều 173, 177, 178, 179; Điều 207, 208, Khoản 3 Điều 210; Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự về cấp, tống đạt, niêm yết công khai văn bản tố tụng và thủ tục giải quyết xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Kim T và anh Lê Trung H tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn hợp pháp. Trước khi làm đơn ly hôn thì chị T và anh H đã sống ly thân được khoảng 02 năm. Chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, hờ hững, không còn yêu thương, quan tâm đến nhau nên có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố H giải quyết cho chị T được ly hôn với anh H.

Hội đồng xét xử thấy thực trạng cuộc sống chung vợ chồng chị T và anh H có mâu thuẫn, hiện tại đã ly thân khoảng 2 năm nay - mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, xử cho chị T được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Về con chung: chị T và anh H có 01 con chung tên là Lê Hồng N, sinh ngày 14/01/2007, có nguyện vọng ở với mẹ. Xét chị T là người đang trực tiếp nuôi dưỡng con và chị T cũng có nghề nghiệp làm công nhân, thu nhập ổn định; trong khi anh H thường xuyên vắng nhà nên cần căn cứ vào thực trạng nuôi con và quy định tại các Điều 81, 82, 83 - Luật Hôn nhân và gia đình để giao con chung Lê Hồng N cho chị T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng nhằm bảo đảm cuộc sống của con được ổn định. Việc cấp dưỡng nuôi con, do chị T chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: chị T trình bày không có gì, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử cũng không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[3]. Về án phí: chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a, Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[4]. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm a, Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/U BTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân : xử cho chị Nguyễn Thị Kim T được ly hôn với anh Lê Trung H.

2. Về con chung: giao con chung Lê Hồng N, sinh ngày 14/01/2007 cho chị Nguyễn Thị Kim T được quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành 18 tuổi hoặc có thay đổi khác. Chị T chưa có yêu cầu Tòa án giải quyết cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lê Trung H có quyền thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: chị Nguyễn Thị Kim T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004433 ngày 13/7/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh H.

Trong thời hạn 15 (mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim T có quyền kháng cáo để xét xử theo trình tự phúc thẩm; bị đơn anh Lê Trung H được kháng cáo tương tự trong thời hạn nêu trên kể từ ngày ản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về