TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 03 tháng 8 năm 2022 tại hội trường Toà án nhân dân huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 77/2022/TLST- HNGĐ, ngày 26/5/2022, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 317/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 18/7/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn T B, sinh năm 1977; Địa chỉ: 359, ấp Đ P, xã Đ H, huyện LV, tỉnh Đ T (có mặt);
2. Bị đơn: Nguyễn V H, Sinh năm 1970. Địa chỉ: 129/2, ấp Đ T, xã Đ H, huyện L V, tỉnh ĐT (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ cũng như tại phiên toà nguyên đơn Nguyễn T B trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Nguyễn T B và Nguyễn V H quen biết nhau và sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi sống chung với nhau vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do Nguyễn V H có hành vi bạo lực gia đình, mỗi khi vợ chồng cự cãi là Nguyễn V H đánh đập Nguyễn T B gây thương tích nhẹ, trong thời gian vợ chồng chung sống Nguyễn T B luôn lo sợ vì hành vi bạo lực của Nguyễn V H, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng ly thân từ tháng 02/2022 đến nay. Nguyễn T B nhận thấy không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với Nguyễn V H nên làm đơn yêu cầu không công nhận vợ chồng với Nguyễn V H.
- Về con chung: Không có.
- Về tài sản khi ly hôn: Nguyễn T B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ khi ly hôn: Nguyễn T B trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn Nguyễn V H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do chính đáng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn T B có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn giữa Nguyễn T B với Nguyễn V H, đây là vụ án “Ly hôn”. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại xã Định Hòa, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp cho nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lai Vung theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn Nguyễn V H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án đến lần thứ hai không có lý do. Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định, vì vậy Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân:
Hôn nhân giữa Nguyễn T B và Nguyễn V H sống chung từ năm 2017, không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do đó, pháp luật không công nhận là vợ chồng, vì đã vi phạm vào khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình có ghi:
“1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.” Tại khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình có ghi:
“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.” Đối chiếu khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình có ghi:
“2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này....”.
[3] Về con chung: Không có.
[4] Về tài sản khi ly hôn: Nguyễn T B không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về nợ khi ly hôn: Nguyễn T B không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về tiền tạm ứng án phí, án phí: Nguyên đơn Nguyễn T B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật hôn và nhân gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 228; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Không công nhận Nguyễn T B và Nguyễn V H là vợ chồng.
2. Về án phí và tạm ứng án phí sơ thẩm:
Nguyễn T B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân là 300.000 đồng. Được khấu trừ 300.000 đồng vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006118, ngày 26/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Nguyễn T B đã nộp xong).
3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 03/8/2022). Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án này được giao cho họ hoặc được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bản án về ly hôn số 36/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 36/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về