Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 413/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 272/2021/QĐXXST–HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13/01/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Như M; Sinh năm: 1997 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 5, xã K, huyện T, tỉnh C ..

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T; Sinh năm: 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 5, xã K, huyện T, tỉnh C ..

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/10/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Như M trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào ngày 24/8/2016. Quá trình chung sống, lúc đầu hạnh phúc nhưng về sau thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cự cải, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, ly thân khoảng 04 tháng nay. Nay chị xác định không còn tình cảm nên xin ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Hà X (nữ), sinh ngày 28/4/2016, hiện nay con đang sống chung với chị. Khi ly hôn chị M yêu cầu được 1 nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn T đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng anh Nguyễn Văn T vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng anh Nguyễn Văn T vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T là đúng quy định. Chị M yêu cầu được ly hôn nên xác định là tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh T xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Xét yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh T, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hôn nhân phải được xây dựng và vun đắp từ hai phía, bằng tình nghĩa, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ và thực hiện công việc trong gia đình. Nay chị M xác định không còn tình cảm với anh T nên chị không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với anh T. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng để anh T tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, các phiên tòa xét xử nhưng anh T vắng mặt không có lý do, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của chị M. Điều đó chứng tỏ anh T đã không quan tâm đến việc hòa giải hàn gắn đoàn tụ cũng như bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình. Xét thấy, hôn nhân của chị M và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M, chị M được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị M có yêu cầu trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Hà Xuyên (nữ), sinh ngày 28/4/2016 và hiện nay con đang sống chung với chị. Xét thấy con chung của chị M, anh T còn nhỏ và là nữ, rất cần sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M về việc trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện chị M yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi con tròn 18 tuổi. Nhưng tại phiên tòa, chị M xác định không yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227, Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Như M được ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Giấy chứng nhận kết hôn số 159/2016 do Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Đông cấp ngày 24/8/2016 không còn hiệu lực.

Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hà X (nữ), sinh ngày 28/4/2016 cho chị M trực tiếp tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người không trực tiếp nuôi con.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

Về nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị M phải chịu 300.000 đồng. Ngày 01/11/2021 chị M đã dự nộp 300.000 đồng tại biên lai số 0004099 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời nay được đối trừ, chị M đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Chị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về