Bản án về ly hôn số 214/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 214/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa (toạ lạc tại Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa) tiến hành xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 594/2021/TLST-HNGĐ ngày 29/10/2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/12/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phan Trường G, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Có mặt).

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 2002.

Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11/10/2021 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Phan Trường G trình bày: Anh và chị T sống với nhau năm 2020, có đăng ký kết hôn tại UBND xã H. Trong thời gian chung sống, vợ, chồng phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vả. Chị T bỏ nhà đi từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay. Nay thấy tình cảm không còn và cũng không thể hàn gắn nên anh xin ly hôn chị T.

Về con chung: Phan Ngọc Ái V, sinh ngày 15/10/2020, con từ khi sinh ra đến nay đều sống chung với anh. Từ khi chị T bỏ nhà ra đi cho đến nay con do anh nuôi dưỡng, con cũng đã quen sống với anh và mẹ anh phụ chăm sóc. Nay anh xin tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Hiện anh làm công nhân, công việc ổn định, thu nhập mỗi tháng 10.000.000đ nên đủ điều kiện để nuôi con. Từ khi chị T bỏ đi, thời gian đầu một tháng chị T mới về thăm con một lần. Từ khi anh nộp đơn ly hôn thì chị T mới về thăm con nhiều hơn, anh nhận thấy chị T không quan tâm đến con, nếu chị T thương con thì không thể bỏ con như vậy. Chị T đi làm công nhân, nếu chị T nuôi con thì cũng gửi con cho mẹ chị T nuôi nhưng khi phát sinh mâu thuẫn giữa anh với chị T thì mẹ của chị T cho rằng chỉ cần chị T, không cần cháu, nếu anh nuôi được thì cứ giữ mà nuôi nên tình cảm đối với cháu không có thì không chăm sóc tốt cho cháu được.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa như sau: Chị trình bày về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian ly thân, về con chung, tài sản chung, nợ chung như anh G đã trình bày. Nay anh G xin ly hôn chị đồng ý.

Về con chung: Phan Ngọc Ái V, sinh ngày 15/10/2020. Con từ khi sinh ra sống chung với chị và anh G. Từ khi chị bỏ nhà ra đi từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay, con do anh G nuôi. Thỉnh thoảng chị có về thăm con, anh G vẫn tạo điều kiện cho chị thăm con, không ngăn cản. Nay chị xin được nuôi con, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con. Hiện chị làm công nhân, thu nhập mỗi tháng 8.000.000đ, chị đủ điều kiện để nuôi con. Do chị đi làm nếu được nuôi con thì chị sẽ gửi cho mẹ của chị chăm sóc phụ. Đối với việc anh G cho rằng một tháng chị mới về thăm con một lần là do chị làm công nhân trong thời gian giãn cách chị không thường xuyên về thăm con được. Đối với việc mẹ chị cho rằng chỉ cần chị không cần cháu là do mẹ chị giận anh G nên mới nói như vậy.

Tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Phan Trường G khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thanh T, chị T hiện có hộ khẩu thường trú tại xã H huyện Đức Hòa nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phan Trường G và chị Nguyễn Thị Thanh T chung sống với nhau vào năm 2020, có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân giữa anh G và chị T được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống, anh G và chị T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh G xin ly hôn chị T, chị T cũng đồng ý ly hôn.

[3] Xét thấy anh G và chị T chung sống với nhau, phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn lại được. Anh G và chị T không tự giải quyết được mâu thuẫn để vợ, chồng đoàn tụ nên anh G xin ly hôn. Chị T cho rằng cuộc sống vợ, chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn nên chị T cũng đồng ý ly hôn. Việc anh G và chị T thuận tình ly hôn là tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về con chung: Phan Ngọc Ái V, sinh ngày 15/10/2010. Sau khi ly hôn anh G và chị T đều xin được quyền nuôi con. Xét thấy, về điều kiện nuôi con, anh G và chị T đều có việc làm ổn định, có thu nhập nên anh G và chị T điều có điều kiện nuôi con. Xét về điều kiện chăm sóc và môi trường sống, cháu V từ nhỏ đã được bà nội và anh G nuôi dưỡng, cháu sống ổn định và phát triển bình thường. Từ khi chị T và anh G sống ly thân đến nay, cháu V do anh G và bà nội cháu nuôi dưỡng, gia đình anh G cũng không ngăn cản việc chị đến thăm con. Để tạo sự phát triển tốt nhất cho cháu Linh, Hội đồng xét xử thấy cần thiết để cháu Linh cho anh G tiếp tục nuôi dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Anh G và chị T khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xém xét.

[6] Anh G phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Trường G đối với chị Nguyễn Thị Thanh T về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Anh Phan Trường G được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thanh T.

Việc nuôi con chung: Anh G được quyền tiếp tục nuôi Phan Ngọc Ái V, sinh ngày 15/10/2020, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh G không có yêu cầu. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con 2. Về án phí: Anh G chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước, anh G được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0008864 ngày 26/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 214/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:214/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về