TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 21/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 51/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Ngọc L; sinh năm: 1988; Nơi cư trú: Số 40/16 (số cũ 04) đường M, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; (vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Kim Đ, Luật sư của Văn phòng luật sư NT – Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)
- Bị đơn: Anh Lê Văn H, sinh năm: 1987; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 150/2 đường T, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; nơi cư trú: Số 40/16 (số cũ 04) đường M, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Đ, địa chỉ: Thôn 14, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị Ngọc L trình bày thì: Chị L và anh Lê Văn H kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình bố mẹ chồng được 5 tháng thì chuyển về nhà cha mẹ chị L tại địa chỉ số 40/16 (số cũ 04) đường M, phường Đ, thành phố Đ sinh sống. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, anh H không lo làm ăn, thường xuyên cờ bạc gây nợ nần, chị L và gia đình đã khuyên giải nhiều nhưng anh H vẫn không thay đổi. Đỉnh điểm năm 2017, anh H bị Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Đ. Nay chị L xác định vợ chồng không khắc phục được mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu được ly hôn với anh H.
Theo biên bản ghi lời khai ngày 23/3/2022, bị đơn anh Lê Văn H trình bày thì: Anh H thống nhất về thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn và việc tự nguyện kết hôn giữa anh H và chị L như chị L trình bày là đúng. Sau khi kết hôn và tổ chức lễ cưới, vợ chồng sống chung tại Ninh Thuận được khoảng 5 tháng, đến tháng 10/2012 thì vợ chồng về Đà Lạt sống chung với gia đình vợ. Quá trình chung sống thì vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Đến tháng 6/2017 thì anh bị bắt giam và bị xử phạt 08 năm tù. Thời gian đầu chị L có đến thăm nuôi nhưng về sau thì không thăm nữa. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn với anh và xin ly hôn thì anh H cũng đồng ý ly hôn.
Về con chung: Chị L và anh H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Ngọc H1, sinh ngày 19/11/2012. Ly hôn chị L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H đồng ý giao con cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh H đều xác định không có.
Do anh H đang chấp hành án và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn chị L có đơn xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh H, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Ông Nguyễn Kim Đ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn chị L đề nghị Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị L và anh H. Giao con chung là cháu Lê Ngọc H1, sinh ngày 19/11/2012 cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Chị L và anh H đều xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án, thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định.
Về nội dung: Xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh H có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống. Anh H bị bắt giam từ tháng 6/2017 và đang chấp hành án. Vợ chồng không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị L yêu cầu ly hôn, anh H cũng đồng ý ly hôn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L. Cho chị L và anh H ly hôn. Đề nghị giao con chung là cháu Lê Ngọc H1, sinh ngày 19/11/2012 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập. Về tài sản chung và nợ chung, hai bên đều xác định không có nên không đề cập.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị L và bị đơn anh H đều có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Ngọc L và anh Lê Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống. Theo chị L thì anh H không lo làm ăn, thường xuyên cờ bạc gây nợ nần, chị L và gia đình đã khuyên giải nhiều nhưng anh H vẫn không thay đổi. Tháng 6/2017, anh H bị bắt và bị Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Đ cho đến nay. Chị L xác định tình cảm với anh H không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh H. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh H là có xảy ra, kéo dài và đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu ly hôn với anh H là có cơ sở. Bị đơn anh H cũng đồng ý ly hôn nhưng do anh H đang chấp hành án và có đơn đề nghị vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được và tại phiên toà hôm nay cả chị L và anh H đều có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L, cho chị L và anh H ly hôn.
[3] Về con chung: Chị L và anh H có 01 con chung là cháu Lê Ngọc H1, sinh ngày 19/11/2012, hiện con đang ở với chị L. Ly hôn chị L yêu cầu được nuôi con. Anh H đồng ý giao con cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng và phù hợp với nguyện vọng của con nên căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh H đều xác định không có nên không đề cập.
[6] Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 điều 28, Điều 147 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị Ngọc L. Cho chị Đỗ Thị Ngọc L và anh Lê Văn H ly hôn.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Ngọc H1, sinh ngày 19/11/2012 cho chị Đỗ Thị Ngọc L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên.
Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai thu số 0001565 ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
5. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 21/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 21/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về