Bản án về ly hôn số 141/2019/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 141/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ LY HÔN

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Phương Hoài N, sinh năm 1991.

Địa chỉ thường trú: 8A/19, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng

2. Bị đơn: Anh Trần Trung K, sinh năm 1991.

Địa chỉ thường trú: 7N/40, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Phương Hoài N trình bày:

Chị và anh Trần Trung K chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 256/2016, ngày 03/11/2016. Quá trình chung sống một năm đầu hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn trong vấn đề tình cảm, vợ chồng thường xuyên cãi vã, dẫn đến xung đột và không tôn trọng lẫn nhau. Vợ chồng anh chị đã nhiều lần cùng ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Do vậy đời sống chung của vợ chồng không hạnh phúc dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục chung sống. Anh chị đã ly thân từ giữa năm 2018 đến nay, chị về nhà mẹ ruột sống. Chị xác định mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án cho chị ly hôn với anh K.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Khả M, sinh ngày 25/12/2015, hiện cháu M đang ở với chị. Ly hôn chị Nguyễn Phương Hoài N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Trần Khả M, không yêu cầu anh Trần Trung K cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên Chị Nđề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai đề ngày 17/5/2019 bị đơn anh Trần Trung K trình bày: Anh và chị N chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 2016. Quá trình chung sống ban đầu hạnh phúc. Đến khoảng tháng 8/2018, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do thời điểm anh chạy taxi có hay nhậu nhẹt, ham vui với bạn bè và làm tiêu tốn số tiền 100.000.000 đồng do mẹ vợ cho. Trong lúc nhậu nhẹt có thành phần bạn xấu hay rủ đi karaoke, bạn của anh có chơi thuốc lắc, anh chỉ đi theo 1 lần. Vợ chồng anh đã ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay. Anh luôn quan tâm đến vợ nhưng vợ lại không quan tâm đến anh. Nay chị N xin ly hôn anh không đồng ý vì anh và vợ là đạo Công giáo, ly hôn là vi phạm luật đạo.

Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Khả M, sinh ngày 25/12/2015. Nếu ly hôn, anh đồng ý giao cháu M cho chị N nuôi dưỡng, tạm thời anh cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh K xác định không có.

Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ được thông qua tại phiên tòa hôm nay có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh K, về con chung đề nghị giao cháu Trần Khả M cho chị Nguyễn Phương Hoài N trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của anh K về việc cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000đồng/tháng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Chị Nguyễn Phương Hoài N khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Trần Trung K. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định chị N là nguyên đơn, anh K là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Trần Trung K có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của Chị N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Nguyên đơn chị Nguyễn Phương Hoài N có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Trần Trung K được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, anh K vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt chị N, anh K theo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung tranh chấp:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Phương Hoài N và anh Trần Trung K chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 256/2016, ngày 03/11/2016. Đối chiếu quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định hôn nhân của chị N và anh K là hợp pháp.

Anh K và chị N đều thừa nhận sau quá trình chung sống ban đầu thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Từ tháng 8 năm 2018 đến nay anh chị sống ly thân.

Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K, còn anh K không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên lý do anh K không đồng ý ly hôn là vì anh và vợ theo đạo Công giáo, ly hôn là vi phạm luật đạo, đồng thời anh K cũng thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do thời điểm anh chạy taxi có hay nhậu nhẹt, ham vui với bạn bè và làm tiêu tốn số tiền 100.000.000 đồng của vợ chồng, hiện nay anh vẫn quan tâm đến chị N nhưng chị N không quan tâm đến anh. Do đó, xác định mâu thuẫn giữa chị N và anh K đã trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Áp dụng quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Phương Hoài N đối với anh Trần Trung K.

[4.2] Về con chung: Quá trình chung sống Chị N và anh K có 01 con chung tên Trần Khả M, sinh ngày 25/12/2015. Ly hôn chị Nguyễn Phương Hoài N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu M, anh K cũng có nguyện vọng giao cháu M cho chị N nuôi dưỡng. Do đó, giao cháu Trần Khả M cho chị Nguyễn Phương Hoài N trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: anh Trần Trung K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000đồng/tháng mặc dù chị Nguyễn Phương Hoài N không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của anh K, đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển của cháu M nên ghi nhận.

[4.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N và anh K khai không có nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Phương Hoài N phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Bị đơn anh Trần Trung K phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Phương Hoài N đối với anh Trần Trung K.

Cho chị Nguyễn Phương Hoài N được ly hôn anh Trần Trung K.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Khả M, sinh ngày 25/12/2015 cho chị Nguyễn Phương Hoài N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trần Trung K cấp dưỡng nuôi con chung 2.000.000đồng/tháng (Hai triệu đồng) cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Chị N, anh K có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị N, anh K khai không có nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí:

Chị Nguyễn Phương Hoài N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí Chị N đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004770 ngày 22 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Chị N đã nộp đủ án phí.

Anh Trần Trung K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Chị Nguyễn Phương Hoài N, anh Trần Trung K được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 141/2019/HNGĐ-ST

Số hiệu:141/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về