Bản án về ly hôn số 131/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HOÀ, TỈNH LONG AN 

BẢN ÁN 131/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 231/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, xin nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 125/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Cẩm H, sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông Hà Thanh P, sinh năm: 1990.

Địa chỉ: Ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

(Bà H và ông P xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 09 tháng 3 năm 2021 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết nguyên đơn bà Đặng Thị Cẩm H trình bày: Bà Đặng Thị Cẩm H và ông Hà Thanh P chung sống với nhau vào năm 2012 đến năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày 06 tháng 02 năm 2013. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả, cuộc sống chung không phù hợp. Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên xin ly hôn ông P.

Về con chung: Bà H khai, bà H và ông P chung sống có 01 con chung tên Hà Hữu L, sinh ngày 08 tháng 02 năm 2013. Khi ly hôn, bà H xin được quyền nuôi con và không yêu cầu ông P cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với ông Hà Thanh P, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông P không đến Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An làm việc hoặc phản hồi ý kiến của ông P về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả thẩm tra, xét hỏi tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình; Bị đơn ông Hà Thanh P có hộ khẩu thường trú tại ấp 4, xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Theo xác nhận của Công an xã Đ ngày 09 tháng 3 năm 2021) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Nguyên đơn bà Đặng Thị Cẩm H và bị đơn ông Hà Thanh P xin vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà H, ông P. [1.3] Nguyên đơn bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện “Về con chung: Bà H đồng ý giao con chung cho ông P nuôi và bà H không cấp dưỡng nuôi con”. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà H là phù hợp với quy định tại Điều 5 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Cẩm H và ông Hà Thanh P chung sống với nhau vào năm 2012 đến năm 2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày 06 tháng 02 năm 2013 nên quan hệ hôn nhân của bà H và ông P được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà H và ông P chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cải vã dù hai bên đã cố gắng hàn gắn để kéo dài cuộc sống hôn nhân nhưng không được. Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên xin ly hôn ông P. Ngược lại, ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án để tham gia hòa giải đoàn tụ cũng như không tham gia phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn gia đình giữa bà H và ông P đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy, bà H yêu cầu được ly hôn với ông P là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà H khai, bà H và ông P chung sống có 01 con chung tên Hà Hữu L, sinh ngày 08 tháng 02 năm 2013. Khi ly hôn, bà H đồng ý giao con chung cho ông P tiếp tục nuôi và bà H không cấp dưỡng nuôi con. Ngược lại, ông P đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung: Bà P khai, tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, ông P đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.4] Về nợ chung: Bà H khai, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét. Ngược lại, ông P đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[3] Về án phí: Bà Đặng Thị Cẩm H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 5, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116, Điều 117, Điều 118 và Điều 119 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Cẩm H xin ly hôn với ông Hà Thanh P.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Cẩm H được ly hôn với ông Hà Thanh P.

Về con chung: Ông Hà Thanh P được quyền tiếp tục nuôi con chung tên con chung tên Hà Hữu L, sinh ngày 08 tháng 02 năm 2013 hiện ông P đang nuôi. Bà Đặng Thị Cẩm H không phải cấp dưỡng nuôi con vì ông P không yêu cầu.

Bà H có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom cháu L mà không ai được cản trở. Trường hợp bà H lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà H theo quy định của pháp luật. Ông P cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của bà H.

Khi cần thiết, trên cơ sở L ích của con chung thì bà H, ông P, người thân thích của các cháu L, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bà Đặng Thị Cẩm H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước, được khấu trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà H đã nộp theo biên lai số 7641 ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hoà sang án phí để thi hành.

Án này là sơ thẩm, bà H, ông P vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 131/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:131/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về