TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 119/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 112/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị H, sinh năm 1966; nơi cư trú: Thôn Thủy Giang, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Đ, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn 1, xã Thủy Triều, huyện N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 27 tháng 8 năm 2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị H trình bày:
Chị kết hôn với anh Đ vào năm 2015 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thủy Triều, huyện N, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 1, xã Thủy Triều, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tình tình vợ chồng không hoà hợp và do anh Đ có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đánh cãi nhau. Chị H đã bỏ về nhà riêng ở thôn Thủy Giang, phường B, quận K, thành phố Hải Phòng sống từ tháng 10 năm 2018 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ.
Về con chung: Vợ chồng không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 29 tháng 6 năm 2022 bị đơn là anh Đ trình bày: Anh kết hôn với chị H vào năm 2015 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thủy Triều. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 1, xã Thủy Triều. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tình tình vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh, anh Đ khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn. Vợ chồng không có con chung và không có tài sản chung. Vì lý do bận công việc nên anh xin vắng mặt tại phiên toà ngày 30 tháng 6 năm 2022.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị H trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Đ chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị H. Về hôn nhân: Cho chị H được ly hôn anh Đ. Về con chung và tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị H và bị đơn là anh Đ vắng mặt tại phiên toà nhưng đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là chị H và bị đơn là anh Đ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thủy Triều, huyện N, thành phố Hải Phòng vào ngày 09 tháng 01 năm 2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chị H và anh Đ chung sống với nhau tại thôn 1, xã Thủy Triều, huyện N, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chị H và anh Đ chung sống hoà thuận đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm sống. Nay chị H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Đ không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ. Anh Đ khẳng định tình cảm vợ không còn nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện quá trình vợ chồng chị H và anh Đ chung sống hòa thuận đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hoà hợp, vợ chồng chị H và anh Đ đã sống ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị H và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H về việc xin ly hôn anh Đ, cho chị H được ly hôn anh Đ.
[3] Về con chung: Chị H và anh Đ thống nhất vợ chồng không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị H và anh Đ thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
1. Cho chị H được ly hôn anh Đ.
2. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007892 ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, thành phố Hải Phòng. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 119/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 119/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về