Bản án về ly hôn, nuôi con số 307/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 307/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 155/2022/TLST–HNGĐ ngày 18/4/2022 về “Ly hôn, nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2022/QĐHPT-ST ngày 07/06/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1994.

Nơi đăng ký HKTT: thôn D, xã T, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Hiện cư trú tại: thôn Đ, xã N, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

* Bị đơn: Anh Vũ Hoàng H, sinh năm 1991.

Nơi đăng ký HKTT và cư trú: thôn D, xã T, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn - Chị Bùi Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị kết hôn với anh Vũ Hoàng H năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ngày 07/03/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại xã N, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc, sau đó giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống, anh H mải chơi không quan tâm đến chị và con cũng như gia đình, mặc dù anh H đi làm có tiền nhưng không đưa cho chị để chị chi phí cho cuộc sống gia đình. Anh H thường xuyên đi làm xa nhà nên đã có mối quan hệ với người phụ nữ khác từ đó dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn. Chị đã một lần nộp đơn xin ly hôn đến Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ nhưng do anh H đe dọa nên chị đã rút đơn. Đến nay, chị và anh H đã ly thân được hơn 01 năm, hiện chị đã về nhà bố mẹ đẻ để ở. Nay chị nhận thấy không còn tình cảm với anh H và nhận thấy mâu thẫn vợ chồng đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ giải quyết cho chị được ly hôn với anh H để cả hai ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh Vũ Hoàng H có 01 con chung là cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 18/10/2016. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung là 2.000.000 đồng/tháng. Nếu anh H có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung thì chị cũng đồng ý. Hiện chị đang làm tự do thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/01 tháng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị và anh Vũ Hoàng H không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – anh Vũ Hoàng H trình bày:

Về hôn nhân: Anh thừa nhận thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, nơi vợ chồng chung sống sau khi kết hôn như chị Bùi Thị H trình bày.

Theo anh, quá trình vợ chồng chung sống anh thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do anh mải chơi nhưng anh vẫn yêu thương vợ và con. Nay anh đã nhận ra sai lầm của mình và đã sửa chữa nên anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi dạy con chung. Chị H nói anh không đưa tiền cho Chị H chi tiêu trong sinh hoạt gia đình là không đúng vì anh đi làm vẫn đưa tiền cho Chị H chi tiêu, chỉ hơn một năm trở lại đây thì anh không đưa do anh thấy Chị H chơi “phường, họ” nhưng không cho anh biết. Nay Chị H xin ly hôn với anh thì anh không đồng ý ly hôn do anh vẫn còn tình cảm với Chị H và con.

Về con chung: Anh và Chị H có 01 con chung là cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 18/10/2016. Nếu phải ly hôn thì anh có nguyện vọng được nuôi con chung vì anh có bà nội cùng anh chăm sóc cháu, anh đi làm có thu nhập cao hơn Chị H và anh có nhà cửa ổn định để anh và con sinh sống. Nếu được nuôi con thì anh không yêu cầu Chị H cấp dưỡng tiền nuôi con. Hiện anh đang đi làm xây dựng cùng anh trai, thu nhập khoảng 15 đến 20 triệu đồng/01 tháng.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh và Chị H không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

+ Chị Bùi Thị H giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh Vũ Hoàng H và giữ nguyên quan được nuôi dưỡng con chung là cháu Vũ Thị Kim N. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H để cho anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu vì cháu là con của anh H.

+ Anh Vũ Hoàng H không đồng ý ly hôn và muốn Chị H cho anh có cơ hội sửa chữa nhưng sai lầm anh đã mắc phải. Về con chung: Nếu phải ly hôn anh H thừa nhận cháu Vũ Thị Kim N sống với Chị H sẽ tốt hơn vì cháu là cháu gái. Về cấp dưỡng anh sẽ tự nguyện có trách nhiệm với con chung vì cháu Ngân là con anh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ có quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố Tụng Dân sự; Các đương sự: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị H và cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Vũ Hoàng H; về con chung: Giao cháu Vũ Thị Kim N cho Chị H trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng tiền nuôi con chung: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện của Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, công nợ, công sức: Không xem xét; về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Vũ Hoàng H có hộ khẩu thường trú và hiện cư trú tại: thôn D, xã T, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội nên hôn nhân giữa Chị H và anh H là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, Chị H cho rằng vợ chồng có mâu thuẫn do anh H không quan tâm đến gia đình và có mối quan hệ với người phụ nữ khác trong thời gian anh H đi làm ăn xa nhà. Anh H cho rằng anh vẫn còn yêu thương Chị Hvà con và mong muốn Chị H cho anh cơ hội để sửa chữa, mặc dù trong thời gian đi làm xa nhà anh có mối quan hệ với người khác nhưng đến nay anh nhận thấy sai lầm của mình và đã chấm dứt mối quan hệ này, anh muốn Chị H cho anh cơ hội sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ.

Xét thấy: Tình cảm vợ chồng để đoàn tụ, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cần có sự mong muốn từ hai phía (Chị H và anh H). Chị H và anh H đã ly thân được khoảng 01 năm. Tuy nhiên, trong thời gian ly thân, cả hai đều không có giải pháp cải thiện tình cảm vợ chồng. Nay Chị H cương quyết xin ly hôn với anh H nên cần xác định mâu thuẫn giữa Chị H và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của Chị H và cho Chị H được ly hôn anh H để cả hai ổn định cuộc sống.

[2.2] Về con chung: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H có 01 con chung là cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 18/10/2016. Hiện cháu Ngân đang ở cùng chị Huế. Tại phiên tòa, anh H cùng nhận thấy nếu phải ly hôn thì cháu Ngân ở cùng Chị H sẽ tốt hơn vì cháu là cháu gái. Xét thấy: Cháu Ngân hiện đang ở cùng Chị H và quan điểm của anh H về người nuôi dưỡng con chung sau ly hôn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần giao con chung là cháu Ngân cho Chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Ngân đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Anh Vũ Hoàng H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung mà để cho anh H tự nguyện. Xét đây là sự tự nguyện của Chị H và không trái quy định của pháp luật nên cần chấp nhận. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H cho đến khi các bên có yêu cầu.

[2.4] Về tài sản chung, công sức, công nợ chung: Không xem xét.

[2.5] Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

[1]. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Bùi Thị H và cho chị Bùi Thị H được ly hôn với anh Vũ Hoàng H.

[2]. Về con chung: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H có 01 con chung là cháu Vũ Thị Kim N, sinh ngày 18/10/2016. Giao cháu Vũ Thị Kim N cho chị Bùi Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu Vũ Thị Kim N đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Anh Vũ Hoàng H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

[2.1] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Bùi Thị H về việc Chị Hkhông yêu cầu anh Vũ Hoàng H cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H cho đến khi các bên có yêu cầu.

[3]. Về tài sản, công nợ chung, công sức: Không xem xét.

[4]. Về án phí: Chị Bùi Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Chị Bùi Thị H đã nộp 300.000 đồng (theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0075810 ngày 18 tháng 4 năm 2022) tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị H và anh Vũ Hoàng H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 307/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:307/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về