TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N VÀ ANH D
Ngày 23 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 39/2022/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17 /2022/QĐXX-ST, ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt).
Bị đơn: Anh Cao Tiến D, sinh năm 1982.
Nơi đăng ký HKTT: Khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Hiện đang học tập và lao động tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số M, tỉnh Nghệ An.
Địa chỉ: Xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An.
(Có đơn xin vắng mặt ).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và qua các lời khai, nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Cao Tiến D đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2008 tại UBND thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Do chị và anh D sống chung nhưng không hòa hợp với nhau nên cuộc sống chung hàng ngày thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Mặt khác, anh D còn nghiện hút ma túy nên cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc và vợ chồng sống ly thân từ tháng 11 năm 2016 đến nay. Chị N thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên viết đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Tiến D.
Về con chung: Chị và anh Cao Tiến D có 02 con chung tên là Cao Lê Ngọc L, sinh ngày 02/11/2008 và Cao Lê Thảo M, sinh ngày 07/08/2012. Ly hôn, chị N đề nghị giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản và nợ chung: Chị Lê Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Qua biên bản lấy lời khai anh Cao Tiến D là bị đơn trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị N đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2008 tại UBND thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Do anh, chị tính tình không hợp nhau nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Mặt khác anh còn sa vào tệ nạn xã hội, phải đi cai nghiện nên cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc. Anh D thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn anh muốn đoàn tụ nhưng nếu chị N nhất quyết yêu cầu Toà án giải quyết được ly hôn với thì anh cũng đồng ý ly hôn chị Lê Thị N.
Về con chung: Anh Cao Tiến D nhất trí với ý kiến trình bày của chị Lê Thị N là vợ chồng có hai con chung là Cao Lê Ngọc L, sinh ngày 02/11/2008 và Cao Lê Thảo M, sinh ngày 07/08/2012. Ly hôn, anh D đồng ý giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng và tạm thời anh chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.
- Về tài sản: Anh Cao Tiến D không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với tài sản chung của vợ chồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến:
+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng vào Điều 51; khoản 1 điều 56; các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, xử: Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị N được ly hôn anh Cao Tiến D; Về con: Cao Lê Ngọc L, sinh ngày 02/11/2008 và Cao Lê Thảo M, sinh ngày 07/08/2012 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Cao Tiến D. Về tài sản:
Chị N và anh D không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét thêm;
Về án phí: Chị N chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Lê Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Cao Tiến D và yêu cầu về giao nuôi con. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn với anh Cao Tiến D có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khối H, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Đối với bị đơn anh Cao Tiến D trong quá trình giải quyết vụ án thì anh D đang học tập và lao động tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số 1, tỉnh Nghệ An và có đơn xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà anh Cao Tiến D cũng xin vắng mặt. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh Cao Tiến D.
[3] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Na và anh Cao Tiến D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 02 tháng 5 năm 2008 tại UBND thị trấn Q, huyện Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân của chị N và anh D đảm bảo về điều kiện kết hôn và đúng nghi thức theo quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Quá trình giải quyết vụ án chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh Cao Tiến D và anh D cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần giải quyết cho chị Lê Thị N được ly hôn anh Cao Tiến D.
[5] Về con: Nếu ly hôn, chị Lê Thị N có nguyện vọng nuôi hai con và không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con, anh Cao Tiến D cũng đồng ý giao hai con cho chị N nuôi dưỡng, thấy rằng: Căn cứ vào nguyện vọng của đương sự, xét hoàn cảnh, điều kiện để nuôi con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và hiện nay anh Cao Tiến D đang học tập và lao động tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số M, tỉnh Nghệ An nên cần giao Cao Lê Ngọc L, sinh ngày 02/11/2008 và Cao Lê Thảo M, sinh ngày 07/08/2012 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 6 năm 2022 trở đi cho đến khi các con đủ 18 tuổi (trưởng thành) và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Cao Tiến D là hợp lý.
[6] Về tài sản: Chị Lê Thị N và anh Cao Tiến D không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét thêm.
[7] Về án phí: Chị Lê Thị N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83,84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 227; khoản 1 điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị N được ly hôn anh Cao Tiến D.
Về con: Giao hai con chung Cao Lê Ngọc L, sinh ngày 02/11/2008 và Cao Lê Thảo M, sinh ngày 07/08/2012 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 06 năm 2022 cho đến khi các con đủ 18 tuổi (trưởng thành). Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Cao Tiến D. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Lê Thị N phải chịu án phí DSST 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ trong số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Lê Thị N đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006834 ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23 /06/ 2022. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn giữa chị N và anh D số 64/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 64/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về