Bản án về ly hôn giữa anh M và chị L số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ LY HÔN GIỮA ANH M VÀ CHỊ L

Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Xuân M, sinh năm 1991; địa chỉ: Xóm 14, xã HH, huyện LN, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn Chị Trần Thị Tài L, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn 6, xã MT, huyện ML, tỉnh Nam Định Hiện đang cư trú và lao động tại Nhật Bản.

- Người làm chứng: Bà Trần Thị P, sinh năm 1968; Địa chỉ: Thôn 6, xã MT, huyện ML, tỉnh Nam Định.

(Tại phiên tòa có mặt anh M; vắng mặt chị L, bà P không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Trần Xuân M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Xuân M kết hôn với chị Trần Thị Tài L trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn vào ngày 16 tháng 9 năm 2016 tại Uỷ ban nhân dân xã HH, huyện LN, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn anh M và chị L chung sống hạnh phúc được một thời gian thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, khoảng đầu năm 2018 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh M đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trần Thị Tài L.

Về con chung: Vợ chồng anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L có một con chung cháu Trần Thị Bảo Ngân, sinh ngày 13-4-2017, hiện nay con chung của vợ chồng đang ở cùng với mẹ đẻ chị L, bà Trần Thị P ở địa chỉ thôn 6, xã MT, huyện ML, tỉnh Nam Định. Hiện nay chị L đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản nên khi ly hôn anh M tự nguyện để con cho chị L và gia đình nuôi dưỡng, anh nhận có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ: Anh Trần Xuân M trình bày vợ chồng anh không có tài sản chung, không có công nợ chung, tài sản riêng và đồ dùng tư trang cá nhân của ai thì người đó đang quản lý, sử dụng nên anh không đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết.

Do hiện nay chị Trần Thị Tài L đang cư trú và lao động tại Nhật Bản nên anh M đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

* Bị đơn chị Trần Thị Tài L đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Bà Trần Thị P (là mẹ đẻ chị L) đã nhận các văn bản tố tụng thay cho chị L. Đến nay chị L không có quan điểm của mình đối với vụ án.

* Tại biên bản làm việc ngày 06 tháng 7 năm 2022, bà Trần Thị P trình bày: Con gái bà là chị Trần Thị Tài L hiện đang cư trú và lao động tại Nhật Bản vẫn thường xuyên liên lạc về với gia đình. Chị L và cháu Trần Thị Bảo Ngân sinh năm 2017 đã chuyển nhập khẩu về nhà bà tại thôn 6, xã MT, huyện ML, tỉnh Nam Định. Nay anh M làm đơn xin ly hôn chị L gia đình bà nhận thấy tình cảm của anh M và chị L không còn nên gia đình bà cũng đồng ý với quyết định của anh M và chị L, Toà án tống đạt các văn bản tố tụng cho chị L, bà nhất trí nhận thay và cam kết sẽ có trách nhiệm thông báo lại các văn bản của Toà án cho chị L được biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hiện nay tại gia đình bà, chị L và anh M không có tài sản gì chung, không có công nợ gì chung.

Tại phiên toà hôm nay, anh Trần Xuân M vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày. Chị Trần Thị Tài L đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật bản nên vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 21; Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thông qua việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán đã tiến hành thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tống đạt các quyết định tố tụng theo quy định tại các Điều 170, 171, 175, 177, 220 BLTTDS năm 2015. Từ khi thụ lý vụ án, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS như cung cấp chứng cứ, nguyên đơn tham gia phiên họp. Bị đơn không có văn bản và tài liệu chứng cứ giao nộp cho Tòa án là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS. Về nội dung vụ án, theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; có đủ căn cứ xử ly hôn giữa anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L. Con chung đề nghị giao cháu Trần Thị Bảo Ngân cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, anh M không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị L theo quy định của pháp luật mà được quyền đi lại thăm nom con. Tài sản chung và công nợ của anh M và chị L không có nên không cần đề cập, giải quyết. Án phí anh M phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Tài L đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ 2 thông qua bà Trần Thị P là mẹ đẻ chị L nhưng chị L vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn vào ngày 16 tháng 9 năm 2016 tại Uỷ ban nhân dân xã HH, huyện LN, tỉnh Hà Nam như vậy cuộc hôn nhân này là hợp pháp.

[3] Trong quá trình chung sống giữa anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của anh M để giải phóng cho hai bên là phù hợp với quy định tại Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L có một con chung cháu Trần Thị Bảo Ngân, sinh ngày 13-4-2017. Hiện nay con chung đang do bà Trần Thị P (là mẹ đẻ chị L) ở địa chỉ thôn 6, xã MT, huyện ML, tỉnh Nam Định nuôi dưỡng, chăm sóc. Khi ly hôn nguyện vọng của anh M tự nguyện để con lại cho chị L và gia đình chị nuôi dưỡng chăm sóc, anh M nhận có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Xét nguyện vọng của anh M trong việc nuôi con chung và cấp dưỡng thì thấy: Cháu Trần Thị Bảo Ngân là con gái mới được hơn 5 tuổi nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ, cháu do chị L và gia đình chị chăm sóc, nuôi dưỡng từ nhỏ, mặc dù chị L đang đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, anh M muốn con được ăn ở ổn định không muốn sáo trộn cuộc sống hiện tại của cháu nên anh đã có ý kiến thể hiện nguyện vọng của mình tự nguyện để con cho chi L nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, đề nghị của anh M là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vì vậy, xét để đảm bảo sự phát triển mọi mặt của con chung nên cần tiếp tục giao cháu Trần Thị Bảo Ngân cho chị L tiếp tục được nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 71, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[6] Về cấp dưỡng tiền nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà hôm nay anh Trần Xuân M nhận có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Trần Thị Tài L không có ý kiến gì về việc nuôi con chung. Do đó trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết. Anh Trần Xuân M có quyền chăm sóc, thăm nom con và cấp dưỡng nuôi con trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện.

[7] Về tài sản chung và công nợ: Anh Trần Xuân M trình bày vợ chồng anh không có tài sản chung, không có công nợ chung, chị Trần Thị Tài L không có ý kiến gì về tài sản chung và công nợ nên về phần tài sản chung và công nợ của vợ chồng anh M, chị L Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Về án phí: Anh Trần Xuân M phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 55; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa anh Trần Xuân M và chị Trần Thị Tài L.

2. Về con chung: Giao con chung cháu Trần Thị Bảo Ngân, sinh ngày 13- 4-2017 cho chị Trần Thị Tài L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động tự lập được hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Anh Trần Xuân M không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị L mà có quyền chăm sóc, thăm nom con nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Xuân M phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ tại biên lai số 0006758 ngày 08-6-2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nam Định, anh Trần Xuân M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Trần Thị Tài L vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn một tháng tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn giữa anh M và chị L số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về