Bán án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 133/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 133/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2020 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 12 tháng 10 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 323/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 về “Không công nhận quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 312/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 320/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Quốc T, sinh năm: 1983 Địa chỉ: Số 46/11E, đường Nguyễn Du, khóm Nguyễn Du, phường Mỹ B, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt (Ông T có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 31/7/2020)

- Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc C, sinh năm: 1983 Địa chỉ: Số 41/8B, đường Nguyễn Du, khóm Nguyễn Du, phường Mỹ B, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Trần Quốc T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà C do quen biết nhau trước, cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới vào năm 2003 nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, mâu thuẫn trong vấn đề kinh tế gia đình và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt nên ông T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với bà C.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Quốc T, sinh ngày 09/9/2003 và Trần Ngọc Kim X, sinh ngày 05/9/2010. Hiện các con do ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn ông T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Trần Thị Ngọc C vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa, không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn.

Tại biên bản ghi ý kiến con chung vào ngày 03/8/2020, cháu Trần Quốc T và cháu Trần Ngọc Kim X đều trình bày nguyện vọng được chung sống với ba nếu trường hợp ba, mẹ ly hôn.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn ông Trần Quốc T có đơn xin đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn bà Trần Thị Ngọc C vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng đét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tranh chấp giữa ông T với bà C là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo biên bản xác minh ngày 01/9/2020 bà Trần Thị Ngọc C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Mỹ B, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên ông T khởi kiện xin ly hôn với bà C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Nguyên đơn Trần Quốc T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt với lý do bận công việc không thể có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án được. Đề nghị này của ông T là phù hợp với khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận. Đối với bà Trần Thị Ngọc C mặc dù đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng bà C vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về hôn nhân: Giữa ông T và bà C đã tự nguyện tiến đến hôn nhân và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2003, mặc dù có đủ điều kiện kết hôn nhưng ông bà vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, do đó Tòa án không xem xét đến mâu thuẫn trong hôn nhân mà căn cứ vào khoản 1 Điều 9; Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, không công nhận ông Trần Quốc T và bà Trần Thị Ngọc C là vợ chồng.

[3] Về con chung: Vợ chồng ông bà có 02 con chung tên Trần Quốc T, sinh ngày 09/9/2003 và Trần Ngọc Kim X, sinh ngày 05/9/2010. Hiện 02 con chung đang do ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên ông T yêu cầu được tiếp tục nuôi con và nguyện vọng của cả 02 con đều xin được ở với ông T là phù hợp với khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Bà Trần Thị Ngọc C không trực tiếp nuôi con chung nhưng bà C có quyền được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản bà C thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[4] Về cấp dưỡng: Do ông T không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về tài sản chung: Ông T trình bày tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến. Nếu các bên có tranh chấp về tài sản sẽ được khởi kiện bằng vụ kiện khác.

[6] Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[7] Về án phí: Ông Trần Quốc T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Ông T và bà C được quyền kháng cáo trong theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 7 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9; Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Trần Quốc T và bà Trần Thị Ngọc C.

[2] Về con chung: Giao 02 con chung tên Trần Quốc T, sinh ngày 09/9/2003 và Trần Ngọc Kim X, sinh ngày 05/9/2010 cho ông Trần Quốc T trực tiếp nuôi dưỡng.

Bà Trần Thị Ngọc C không trực tiếp nuôi con chung nhưng bà C có quyền được thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản bà C thực hiện quyền này. Việc nuôi con không cố định.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Trần Thị Ngọc C không phải cấp dưỡng nuôi con, do ông T không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Ông Trần Quốc T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà ông T đã nộp theo biên lai thu số 0000871 ngày 18/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên. Ông T đã nộp xong án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Ông Trần Quốc T và bà Trần Thị Ngọc C được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

368
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án về không công nhận quan hệ vợ chồng số 133/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:133/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về