TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 52/2018/HC-PT NGÀY 14/03/2018 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT BUỘC THÔI VIỆC CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2016/TLPT- HC ngày 17 tháng 8 năm 2016 về việc “Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số: 02/2016/HC-ST ngày 06 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2018/QĐ - PT ngày 27 tháng 02 năm 2018 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1966 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện T1, tỉnh Long An
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư Nguyễn Văn H – Đoàn luật sư tỉnh Long An (có mặt).
- Người bị kiện: Cục trưởng Cục thuế tỉnh Long An
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Trần Văn L – Phó Cục trưởng Cục thuế tỉnh Long An (có mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Nguyễn Văn S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 02/02/2016 ông Nguyễn Văn S trình bày:
Từ tháng 4 đến tháng 5/2015, ông Nguyễn Văn S (Cán bộ thu thuế hộ cá thể thuộc Chi cục thuế huyện T1) có mượn tiền thu thuế với tổng số tiền 10.230.000 đồng nên ông S có nộp phạt “tiền chậm nộp do ngành thuế quản lý” 92.156 đồng. Nguyên nhân do mẹ ông S nằm viện. Việc chậm nộp là do nguyên nhân khách quan. Ông S không có ý chiếm đoạt. Bản thân ông S đã tự kiểm điểm nhận hình thức kỷ luật “Cảnh cáo”. Hội đồng kỷ luật Cục thuế tỉnh Long An có quyết định kỷ luật “Buộc thôi việc” ông S với các nguyên nhân: 03 lần đánh bạc, 03 lần chiếm dụng tiền thuế (01 lần bị xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội lạm dụng).
Ông S không đồng ý việc Hội đồng kỷ luật cho rằng ông mượn tiền của người nộp thuế, sửa chữa ngày trên biên lai thu thuế.
Ông S thừa nhận: Có bị xử phạt vi phạm hành chính 01 lần về hành vi đánh bạc ngày 13/5/2013 vì thời hiệu đã trên 01 năm (tiền sự đánh bạc không còn) và bị xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thử thách 02 năm (Bản án số 08/2007/HC-ST ngày 26/01/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An). Ông S đã chấp hành xong và đương nhiên xóa án tích.
Với những lý do trên, ông S không đồng ý quyết định 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục thuế tỉnh Long An kỷ luật “Buộc thôi việc” ông. Ông Nguyễn Văn S yêu cầu Tòa án hủy quyết định 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục thuế tỉnh Long An nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của ông.
Tại văn bản số 608/CT-TCCB ngày 29/3/2016 của Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An được tóm tắt như sau:
Ông Nguyễn Văn S được tuyển dụng vào ngành thuế ngày 23/9/1997, trong quá trình công tác từ khi thực hiện nhiệm vụ Ủy nhiệm thu đến khi làm công chức thuế (trên 18 năm) đã vi phạm và bị xử lý hình sự kỷ luật như sau:
- Năm 1997, ông S bị kỷ luật “Khiển trách” tại quyết định 35/CCT.QĐ.97 của Chi cục thuế huyện T1 về hành vi đánh bạc.
- Năm 2000, ông bị công an huyện T1 phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. (Khi Cục thuế phát hiện thì đã hết thời hiệu xử lý kỷ luật).
- Năm 2004, ông bị kỷ luật “Cảnh cáo” tại quyết định số 12/QĐ-CT ngày 02/01/2004 của Cục thuế tỉnh Long An do chiếm dụng, xâm tiêu tiền thuế với số lượng lớn.
- Năm 2005, ông bị kỷ luật hạ bậc lương tại quyết định 2804/QĐ-CT- TCCB ngày 05/9/2005 của Cục thuế tỉnh Long An (chưa xóa kỷ luật) tiếp tục tái phạm chiếm dụng tiền thuế.
- Năm 2007, lần 01 ông bị kỷ luật hạ ngạch từ kiểm thu viên thuế (ngạch: 06.039 bậc 02 hệ số 2.06) xuống nhân viên thuế (ngạch 06.040 bậc 04 hệ số 2.04) tại quyết định 1771/QĐ-CT, ngày 02/5/2007 của Cục thuế tỉnh Long An do chiếm dụng tiền thuế với số lượng lớn (trên 80.000.000 đồng, có cho Uỷ ban xã mượn 38.000.000 đồng); lần 02 tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/HCST ngày 26/01/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “ Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.
- Năm 2013, bị kỷ luật hạ bậc lương từ bậc 07, hệ số 2.58 xuống bậc 06, hệ số 2.40 tại quyết định 1391/QĐ-CT ngày 14/6/2013 của Cục thuế do uống rượu bia, đánh bạc ăn tiền trong giờ làm việc bị công an huyện T1 xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng tại quyết định số 82/QĐ-PHC ngày 13/5/2013.
Năm 2015, căn cứ 02 văn bản kết luận kiểm tra nội bộ số 1119/KL-CCT ngày 05/8/2015, văn bản số 1161/KL-CCT ngày 10/8/2015 cùng của Chi cục thuế huyện T1. Trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5/2015, ông S có những sai phạm như sau:
- Có hành vi viết 08 biên lai thu thuế số tiền 9.390.000 đồng, cố tình chừa lại phần ghi ngày, tháng thu không lót giấy than theo quy định để sau đó ghi lại ngày, tháng khác trên biên lai để thu lợi.
- Có hành vi cố tình sửa ngày thu trên 17 số biên lai thu thuế để kéo dài thời gian chậm đăng nộp để sử dụng số tiền 20.076.000 đồng.
- Có hành vi chậm nộp tiền thuế vào ngân sách nhà nước khi quyết toán xong biên lai thu trên 17 số biên lai để sử dụng số tiền 15.031.000 đồng.
Ông S giải trình việc vi phạm là do ông cần tiền trong thời gian mẹ ông bệnh (Cơ quan có quỹ công đoàn cho công chức mượn từ 06-12 triệu nhưng ông S không mượn).
- Có hành vi nhận tiền thuế 3.500.000 đồng chậm lập thủ tục tính thuế, viết biên lai thu, đăng nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định.
Xét các hành vi của ông Nguyễn Văn S năm 2015 vừa nêu đã vi phạm quy định Luật Quản lý thuế, Luật Cán bộ công chức, các quy định của ngành thuế, bộ tài chính. Cục thuế đã thành lập Hội đồng kỷ luật và tiến hành họp vào ngày 12/10/2015, xem xét sai phạm của ông S tại 02 văn bản kết luận kiểm tra nội bộ của Chi cục thuế huyện T1. Ông S đã công nhận việc làm sai trái của mình, bước đầu có đôi co chối quanh, nhất là số tiền 3.500.000 đồng cho rằng khi thì mượn người này, lúc thì mượn của người khác, cá tính ông S coi ai không ra gì, chuyên môn nghiệp vụ yếu kém, luôn vi phạm luật có hệ thống. Cục thuế đã áp dụng nhiều hình thức kỷ luật để ông S có cơ hội sửa chữa nhưng ông vẫn tái phạm ngày càng nghiêm trọng.
Do đó, Hội đồng kỷ luật biểu quyết bỏ phiếu kín 05/05 thi hành kỷ luật ông Nguyễn Văn S với hình thức kỷ luật “Buộc thôi việc”. Cục trưởng cục thuế căn cứ kết quả biểu quyết ban hành quyết định 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 thi hành kỷ luật ông Nguyễn Văn S với hình thức kỷ luật “Buộc thôi việc”. Yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu của ông S.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/2016/HC-ST ngày 06 tháng 5 năm 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính; Áp dụng Pháp lệnh về án phí, lệ phí Tòa án 2009,
Tuyên xử:
Không chấp nhận nội dung khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu hủy quyết định 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, thi hành án và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/5/2016 người khởi kiện ông Nguyễn Văn S kháng cáo đề nghị hủy quyết định số 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An.
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu kháng cáo yêu cầu huỷ Quyết định số 2224/QĐ - CT ngày 16/10/2015 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Long An.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện phát biểu: Ông S không đồng ý Cục thuế quy kết ông nộp chậm số tiền thu thuế vào ngân sách Nhà nước của 17 biên lai với số tiền trên 15.000.000 đồng theo quy định nếu thu vùng sâu vùng xa thì được chậm nộp 5 ngày. Số tiền 3.500.000 đồng Cục thuế cho rằng đây là số tiền ông S mượn của người phải nộp thuế là không đúng, số tiền trên ông S mượn của ông T2 chứ không phải của ông M. Ông S vào biên chế ngày 23/9/1997, nhưng lại có Quyết định kỷ luật vào ngày 16/6/1997 là mâu thuẫn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S, hủy quyết định buộc thôi việc của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Long An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà phát biểu:
+ Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đều tuân thủ đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.
+ Về nội dung: Qua các tài liệu trong hồ sơ, qua thẩm vấn công khai ông S đã thực hiện 4 hành vi đã liệt kê, các hành vi vi phạm này đã vi phạm vào các quy định của Bộ tài chính, của Tổng cục thuế nhằm kéo dài thời gian nộp tiền thu thuế vào ngân sách Nhà nước. Do đó, Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An ban hành Quyết định số 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 buộc thôi việc ông S là có căn cứ, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, nghe lời phát biểu của Luật sư, của đại diện Viện kiểm sát,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về Tố tụng: Về đối tượng khởi kiện, về Thẩm quyền xét xử, về thời hiệu khởi kiện là hoàn toàn đúng quy định pháp luật tố tụng hành chính.
[2] Về nội dung: Xét tính có căn cứ và tính phù hợp pháp luật của Quyết định số 2224/QĐ- CT ngày 16/10/2015:
+ Về hình thức: Quyết định trên được Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An ban hành đúng trình tự thủ tục (về thời hiệu, thời hạn thi hành kỷ luật, về thành phần hội đồng kỷ luật) theo quy định tại khoản 1 Điều 3; khoản 2 Điều 4 và điểm d khoản 1 Điều 11 Quyết định 531/QĐ-BTC ngày 19/3/2015 của Bộ tài chính; Điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 9 Quyết đinh 2534/QĐ-BTC ngày 30/9/2014 của Bộ tài chính và khoản 1 Điều 15 Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ.
+ Về tính hợp pháp của Quyết định: Căn cứ để ban hành Quyết định 2224/QĐ–CT ngày 16/10/2015 là áp dụng Điều 5 Quyết định số 30/2001/QĐ- BTC ngày 13/4/2001 của Bộ tài chính; khoản 7 Điều 28 Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ tài chính ;
Xét Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An ban hành Quyết định số 2224/QĐ- CT ngày 16/10/2015 buộc thôi việc ông Nguyễn Văn S vì tháng 4, 5 năm 2015 ông S có những hành vi vi phạm các quy định của ngành, cụ thể:
- Hành vi ghi 08 biên lai thu thuế không lót giấy than giữa các liên (nhằm ghi lại ngày tháng khác trên biên lai), tổng số tiền thu 9.946.000 đồng.
- Hành vi sửa ngày thu thuế trong 17 biên lai thu thuế, tổng số tiền thu 20.076.000 đồng. Trong 02 tháng 4, 5 năm 2015, ông S thu tổng cộng 87 số biên lai. Ông S thực hiện nhiệm vụ thu không đúng quy định 25 số biên lai, tổng số tiền 29.466.000 đồng (chiếm tỉ lệ 28,74% số biên lai thu).
- Hành vi chậm đăng nộp tiền thu thuế vào ngân sách nhà nước khi quyết toán xong 17 biên lai thu (14 biên lai thu tổng số tiền 13.431.000 đồng nộp chậm 01 ngày; 03 biên lai tổng số tiền 1.6000.000 đồng nộp chậm 10 ngày).
- Hành vi nhận tiền của người nộp thuế là ông Phạm Hoàng M 3.500.000 đồng ngày 26/6/2015, hẹn ngày 29/6/2015 ra biên lai, nhưng đến ngày 06/7/2015 ông S trả lại số tiền mượn cho ông M.
Các hành vi trên của ông S nhằm kéo dài thời gian nộp tiền thu thuế vào ngân sách Nhà nước đã vi phạm Điều 5 Quyết định số 30/2001/QĐ-BTC ngày 13/4/2001 của Bộ Tài chính; Khoản 7 Điều 28 Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính; Điều 20 Quyết định 2181/QĐ-TCT ngày 27/12/2012 của Tổng cục thuế; Khoản 4 Điều 113 Luật Quản lý thuế.
Với tính chất, mức độ vi phạm của ông S như trên, nên Hội đồng kỷ luật của Cục thuế tỉnh Long An đã thống nhất bỏ phiếu với hình thức kỷ luật buộc thôi việc. Ngày 16/10/2015 Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An căn cứ khoản 5 Điều 14 Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ ban hành Quyết định 2224/QQĐ-CT thi hành kỷ luật với hình thức “ Buộc thôi việc” ông Nguyễn Văn S. Không đồng ý với Quyết định trên ông S đã khởi kiện Quyết định trên tại Toà án nhân dân tỉnh Long An, sau khi xét xử sơ thẩm, ông S kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm và yêu cầu huỷ Quyết định số 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục trưởng cục thuế tỉnh Long An vì ông S cho rằng Cục thuế quy kết ông chậm nộp số tiền thu thuế vào ngân sách Nhà nước của 17 biên lai với số tiền 15.031.000 đồng là không đúng vì theo quy định của ngành thuế nếu thu các địa phương vùng sâu vùng xa thì được chậm nộp 5 ngày, ông cũng không có sửa chữa các ngày thu thuế trên các phiếu thu như cục thuế đã quy kết, ngoài ra ông S còn cho rằng số tiền 3.500.000 đồng ông không có mượn của ông M.
Qua đối chiếu các chứng cứ trong hồ sơ và đối thoại với Cục trưởng cục thuế tại phiên toà thể hiện 03 xã mà ông S được phân công thu thuế không được xếp vào vùng sâu, vùng xa để được nộp chậm tiền vào ngân sách 5 ngày như lời trình bày của ông S và Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông S, ngoài ra ông S cho rằng ông không có sửa chữa các ngày trên phiếu thu, nhưng tại tờ tường trình ông S lại thừa nhận là ông có sửa chữa vì mẹ bị bệnh kinh tế khó khăn nên ông mượn tiền thu thuế tháng 4,5 năm 2015 để điều trị bệnh cho mẹ. Do đó, các vấn đề ông S trình bày tại phiên toà không có căn cứ.
Xét thấy, trong suốt quá trình công tác từ năm 1997 đến năm 2013 ông S liên tục vi phạm các quy định của ngành và bị kỷ luật cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch và thậm chí còn bị Toà án xử phạt tù cho hưởng án treo, Cục thuế đã tạo mọi điều kiện để ông S được tiếp tục công tác, nhưng ông S vẫn không có hướng khắc phục, sửa đổi lại tiếp tục vi phạm những quy định của pháp luật về thuế, về phẩm chất của người công chức. Nên không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S như đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên toà. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Do bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên ông Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 163 Luật tố tụng hành chính năm 2010
Áp dụng khoản 2 Điều 34 Pháp lệnh 10/2009/PL-UBTVQH12 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án.
Xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu huỷ Quyết định 2224/QĐ-CT ngày 16/10/2015 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Long An.
Về án phí:
Ông Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm, được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000168 ngày 24/02/2016 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Ông Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm, được khấu trừ tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0000227 ngày 18/5/2016 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức số 52/2018/HC-PT
Số hiệu: | 52/2018/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 14/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về