Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính số 20/2022/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 20/2022/HC-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH

Ngày 05 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 123/2021/TLST-HC ngày 05/11/2021 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HC ngày 04/03/2022, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1958. Địa chỉ: Số 229 ấp P, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Phú: Ông Hà Văn H, sinh năm 1966. Địa chỉ: Số 98 đường Nguyễn Văn Tiếp, khu phố 3, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.

Người bị kiện:

- Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thành U, Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ông Trần Văn H, Chức vụ:

Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B, tỉnh Long An.

- Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn L, Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

(Ông H, ông H có mặt; Ông U, ông L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19/10/2021 và lời trình bày của đại diện người khởi kiện trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa có nội dung:

Ông Nguyễn Văn P là con của gia đình liệt sỹ thuộc diện chính sách. Ở thời điểm năm 1988 gia đình ông P được chính quyền địa phương xã TP cấp cho khoảng 3.000m2 đất. Trong quá trình sử dụng anh, em trong gia đình ông P đã phân chia canh tác ổn định từ năm 1988 đến nay không có ai tranh chấp. Cụ thể như sau: Ông Nguyễn Văn P sử dụng thửa số 288, tờ bản đồ số 15, diện tích 1.129,6m2, ông Nguyễn Văn Q sử dụng thửa số 665, tờ bản đồ số 15, diện tích 647,3m2, bà Nguyễn Thị L sử dụng thửa số 251, tờ bản đồ số 15, diện tích 1.213,9m2, trong sổ mục kê theo dõi đất đai của địa phương đã thể hiện. Căn cứ theo qui định của Luật Đất đai năm 1993, 2013 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật đất đai, ông Pđủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông P làm hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân xã TP không giải quyết với lý do đất của Hợp tác xã cho gia đình mượn canh tác. Xét thấy, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất bị vi phạm nên ông P khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy văn bản có liên quan số 15/CV-UBND ngày 11/01/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An. Buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Pđối với thửa đất số 635, tờ bản đồ số 3, vị trí thửa đất ấp P, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

Tại Văn bản số 3894/UBND-VP ngày 22 tháng 3 năm 2022 của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An có nội dung như sau:

Ngày 16/6/2021 Ủy ban nhân dân xã TPcó báo cáo số 303/BC-UBND về việc quản lý đất công trên địa bàn xã TP (đất có nguồn gốc từ Hợp tác xã nông nghiệp cho người dân mượn) và đề nghị Ủy ban nhân dân huyện B xem xét cho ý kiến được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho số hộ để ổn định tình hình quản lý đất đai tại địa phương. Ngày 22/9/2021 Ủy ban nhân dân huyện B đã có công văn số 6721/UBND-VP giao cho Ủy ban nhân dân xã TP chủ trì, phối hợp cùng Phòng tài nguyên môi trường khẩn trương tiến hành lập hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp đủ điều kiện theo qui định.

Tại Văn bản số 85/CV-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2022 của người bị kiện Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có nội dung như sau:

Ủy ban nhân dân xã TP xin vắng mặt tại các buổi đối thoại và tại các phiên Tòa của Tòa án. Trong vụ án này Ủy ban nhân dân xã TP không có ý kiến hay yêu cầu gì đề nghị Tòa án nhân dân các cấp xét xử theo qui định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục tố tụng quy định, về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền, Tòa án xác định đúng đối tượng, khi ông Pkhởi kiện là còn trong thời hiệu nên việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ, căn cứ vào phần tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.

Hành vi của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An về việc không thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P là hành vi không đúng qui định pháp luật.

Hủy văn bản số 15/CV-UBND ngày 11/01/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

Buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P đối với thửa đất số 288, tờ bản đồ số 15, tọa lạc ấp P, xã TP, huyện B, tỉnh Long An theo quy định Luật đất đai.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thủ tục tố tụng:

[1.1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Yêu cầu xem xét hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Văn bản số 15/CV-UBND ngày 11/01/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP là quyết định hành chính có liên quan nên được xem xét giải quyết trong vụ án này theo quy định tại Điều 193 Luật tố tụng hành chính.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Ông Nguyễn Văn P nộp hồ sơ đến Ủy ban nhân dân huyện B để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 288 nhưng Ủy ban nhân dân huyện B không giải quyết. Trước đó, ông P cũng nộp đơn đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến Ủy ban nhân dân xã TP. Ngày 11/01/2021, Ủy ban nhân dân xã TP ban hành văn bản số 15/CV-UBND có nội dung xác định ông Pkhông đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 288. Đến ngày 19/10/2021 ông Pnộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An là còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[1.3] Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, đại diện người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 157; khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử vắng mặt đối với người bị kiện là phù hợp.

[1.4] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo cho các đương sự về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và đối thoại nhưng đại diện người khởi kiện có đơn yêu cầu không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và đối thoại; Người bị kiện có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 135, 136 Luật Tố tụng hành chính Tòa án thu thập đầy đủ chứng cứ, không tiến hành đối thoại và đưa vụ án ra xét xử là có cơ sở.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về thẩm quyền: Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An là cơ quan quản lý đất đai địa phương có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật Đất đai. Ủy ban nhân dân xã TP là cơ quan tiếp nhận hồ sơ và thực hiện thủ tục xác nhận tình trạng đất theo quy định tại Điều 101 Luật đất đai. Do đó, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn P gởi đến Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An là đúng cơ quan có thẩm quyền.

[2.2] Về hành vi hành chính bị kiện, xét thấy:

Việc Ủy ban nhân dân xã TP xác định phần đất thuộc thửa số 288 mà ông Nguyễn Văn P xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đủ điều kiện được cấp giấy là không chính xác. Bởi lẽ, nguồn gốc thửa đất số 288 gia đình ông P được Hợp tác xã Phước Tú giao cho để sản xuất. Năm 1988, khi Hợp tác xã TP giải thể thì gia đình ông P tiếp tục canh tác ổn định thửa đất số 288 từ năm 1988 đến nay, không có phát sinh tranh chấp và kê khai đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông P kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thực hiện quyền của người sử dụng đất được quy định tại Điều 166 Luật đất đai. Do đó, ông Pđủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 166 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013. Nhưng Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An không thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Plà trái quy định pháp luật và ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của ông Phú.

[2.2.1] Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P về việc khởi kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã đề nghị.

[2.2.2] Hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An về việc không thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P là chưa đúng qui định pháp luật.

[2.2.3] Đối với văn bản có liên quan số 15/CV-UBND ngày 11/01/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có nội dung xác định trường hợp ông Pkhông đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng qui định của pháp luật nên cũng cần phải hủy.

[2.2.4] Buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P đối với thửa đất số 288, tờ bản đồ số 15, tọa lạc ấp P, xã TP, huyện B, tỉnh Long An theo quy định Luật đất đai.

[3] Về chi phí tố tụng và án phí:

[3.1] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 1.400.000 đồng, ông Nguyễn Văn P đã nộp tạm ứng và tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này là phù hợp theo khoản 1 Điều 357; Điều 358 Luật Tố tụng hành chính nên ghi nhận.

[3.2] Về án phí: Ông Nguyễn Văn P không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Ủy ban nhân dân xã TPvà Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 166, Điều 101 và Điều 105 Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn P về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.

Hành vi của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An về việc không thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P là hành vi không đúng qui định pháp luật.

Hủy văn bản số 15/CV-UBND ngày 11/01/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.

Buộc Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn P đối với thửa đất số 288, tờ bản đồ số 15, tọa lạc ấp P, xã TP, huyện B, tỉnh Long An theo quy định Luật đất đai.

[2] Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn P chịu 1.400.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, ông P đã nộp xong.

[3] Về án phí:

Ông Nguyễn Văn P là người cao tuổi được miễn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, ông Pkhông phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.

Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An phải nộp 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm.

Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải nộp 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm.

[4] Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính số 20/2022/HC-ST

Số hiệu:20/2022/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 05/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về