Bản án 180/2018/LĐ-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tiền lương

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 180/2018/LĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP, BẢO HIỂM TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ TIỀN LƯƠNG

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2018/TLST-LĐ ngày 03 tháng 5 năm 2018 về “Tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 462/2018/QĐXXST-LĐ ngày 19 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 435/2018/QĐST-LĐ ngày 08 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; Thường trú: 3/37 phường T, Quận K, Thành phố H; (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đặng Phi P, sinh năm 1961; Địa chỉ: 710/30 Lũy Bán B, phường T, quận P, Thành phố H (Theo văn bản ủy quyền lập ngày 30/3/2018); (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn B; địa chỉ trụ sở: Đường 2B, Khu Công nghiệp V, phường H, quận B, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Park Kye H – chức vụ: giám đốc; địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Lô D, P.701 Chung cư T, đường Nguyễn Văn Q, phường Đ, Quận K, Thành phố H; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2018, bản tự khai, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị T làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn B (sau đây gọi là Công ty) từ ngày 15/8/2002 đến tháng 10/2003 các bên chính thức ký hợp đồng lao động, nội dung thỏa thuận: Hình thức trả lương bằng tiền mặt 01 lần vào ngày 10 dương lịch hàng tháng; tiền thưởng: Làm việc đủ 01 năm thì được hưởng 01 tháng lương vào dịp tết nguyên đán, chế độ nghỉ phép là 14 ngày phép/01năm; chế độ nâng lương theo quy định. Tuy nhiên, sau khi ký kết, công ty không giao bản hợp đồng lao động cho bà giữ. Mức lương của bà từ tháng 6/2017 đến tháng 12/2017 là 3.938.000đ/tháng, mức lương tháng 01/2018 là 4.179.000đ/tháng. Đến giữa tháng 02/2018 Công ty B đã ngừng hoạt động.

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2018, bà có yêu cầu Công ty chốt và trả sổ bảo hiểm xã hội nhưng trong quá thực tế bà đã được nhận lại sổ bảo hiểm. Ngày 20/7/2018, đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị rút lại yêu cầu này.

Hiện Công ty còn nợ nghĩa vụ đóng các độ bảo hiểm cho bà trong giai đọan từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018, với số tiền nợ gốc là 8.513.793đ. Đồng thời, Công ty cũng còn nợ bà các khoản tiền gồm: 70% tiền lương ngưng việc trong tháng 10/2017 là 1.504.467 đồng; 09 ngày công làm việc trong tháng 02/2018 (tính đến ngày 12/02/2018) cho bà với số tiền là 2.395.245 đồng; 17 ngày tiền phép năm của năm 2017 là 2.574.846 đồng; tiền lương tháng 13 của năm 2017 là 3.938.000 đồng.

Bà yêu cầu Công ty Trách nhiệm hữu hạn B thanh toán tổng số tiền 18.926.352đ, thi hành khi bản án có hiệu lực.

Bị đơn: Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn đến Tòa để giải quyết vụ án, bị đơn không đến và không có ý kiến trình bày.

Tại phiên Tòa:

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân quận Bình Tân thụ lý vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán thụ lý giải quyết hồ sơ vụ án đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng thời hạn đưa vụ án ra xét xử chưa đảm bảo thời hạn quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án đúng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự;. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật, bị đơn đã được Tòa án tống đạt triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, tiền lương, đây là tranh chấp về lao động cá nhân giữa người lao động và người sử dụng lao động; bị đơn có trụ sở hoạt động tại quận Bình Tân. Căn cứ khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về điều kiện khởi kiện: theo đơn khởi kiện của nguyên đơn có tranh chấp về tiền lương, căn cứ theo Điều 201 Bộ luật lao động năm 2012 và Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định một số loại việc tranh chấp bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở. Do đó, căn cứ vào biên bản hòa giải không thành về tranh chấp lao động lập ngày 17/4/2018 của Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quận Bình Tân thì việc khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp theo quy định nên nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện.

Về thủ tục xét xử vắng mặt của đương sự:

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đại diện của nguyên đơn là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Công ty TNHH B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai, yêu cầu Công ty có mặt tại Tòa để Tòa án tiến hành xét xử, giải quyết việc tranh chấp về các khoản bảo hiểm, về tiền lương, tiền thưởng và tiền phép năm giữa bà Nguyễn Thị T và Công ty nhưng Công ty vắng mặt không có lý do; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố dụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp.

Xét yêu cầu của nguyên đơn:

Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn đề nghị bị đơn thực hiện nghĩa vụ chốt, trả sổ bảo hiểm xã hội, thực hiện nghĩa vụ đóng các chế độ bảo hiểm, trả tiền lương, tiền thưởng và tiền phép năm. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết, nguyên đơn đã được nhận sổ bảo hiểm xã hội nên nguyên đơn xin rút yêu cầu trả và chốt sổ theo đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 10/7/2018. Xét thấy, việc rút yêu cầu nói trên là hoàn toàn tự nguyện, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của nguyên đơn là hoàn toàn phù hợp.

Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; Hội đồng xét xử xét thấy: nguyên đơn khai, bắt đầu làm việc từ ngày 15/8/2002, tuy nguyên đơn không cung cấp cho Tòa án bản hợp đồng lao động nhưng căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì thực tế giữa nguyên đơn và bị đơn có diễn ra quan hệ lao động và có thỏa thuận như: Hình thức trả lương bằng tiền mặt 01 lần vào ngày 10 dương lịch hàng tháng; tiền thưởng: Làm việc đủ 01 năm thì được hưởng 01 tháng lương vào dịp tết nguyên đán, chế độ nghỉ phép là 14 ngày phép/01năm; chế độ nâng lương theo quy định. Mức lương của nguyên đơn từ tháng 6/2017 đến tháng 12/2017 là 3.938.000 đồng/tháng, mức lương tháng 01/2018 là 4.179.000 đồng/tháng; về phía nguyên đơn đã hoàn thành công việc được giao về phía bị đơn thực hiện đầy đủ việc chi trả lương, đóng các chế độ Bảo hiểm xã hội nhưng từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018 bị đơn chưa đóng các chế độ bảo hiểm với số tiền là 8.513.793đ. Ngoài ra, nguyên đơn còn cung cấp cho Tòa bảng tính 70% tiền lương ngưng việc trong tháng 10/2017; 09 ngày công làm việc trong tháng 02/2018 (tính đến ngày 12/02/2018); 15 ngày tiền phép năm của năm 2017 và tiền lương tháng 13 của năm 2017.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng tiến hành xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ tại cơ quan Bảo hiểm xã hội quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, theo bảng tính các chế độ bảo hiểm thì mức lương cơ bản hàng tháng nguyên đơn nhận từ tháng 6/2017 đến tháng 12/2017 là 3.938.000đ/tháng; tháng 01/2018 mức lương tăng theo quy định vùng là 4.179.000đ/tháng. Đồng thời, theo Công văn số 214/CV - BHXH ngày 28/9/2018 của Bảo hiểm xã hội quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận “Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964, số sổ BHXH: 0203310316, có quá trình tham gia từ tháng 10/2003 đến tháng 01/2018 nhưng Công ty mới trích nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN đến hết tháng 05/2017. Căn cứ vào mức lương đóng mà Công ty đã báo cáo với Bảo hiểm xã hội quận Bình Tân thì số tiền Công ty phải đóng (chưa bao gồm lãi) cho bà Nguyễn Thị T, số sổ BHXH nêu trên từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018 số tiền là 8.513.793đ”. Tuy nhiên, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn khai nhận, số tiền đóng bảo hiểm xã hội hàng tháng mà nguyên đơn phải đóng là số tiền đã được bị đơn trích ra từ tiền lương hàng tháng của nguyên đơn, sau đó mới thanh toán tiền lương từ tháng 6/2017 đến tháng 1/2018 nhưng bị đơn chưa thực hiện nghĩa vụ đóng cho Bảo hiểm xã hội quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc là trách nhiệm chung của người sử dụng lao động và người lao động điều này cũng nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động cũng là phù hợp theo quy định pháp luật. Đồng thời, căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội thì “trách nhiệm của người sử dụng lao động là đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 luật bảo hiểm xã hội và hàng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của luật bảo hiểm xã hội để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Việc thu tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp của nguyên đơn nhưng bị đơn chưa nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội là vi phạm nghiêm trọng quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc Công ty thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ bảo hiểm trong giai đọan từ tháng 6/2017 đến tháng 01/2018, với số tiền 8.513.793đ là có cơ sở chấp nhận.

Xét yêu cầu đòi tiền lương, tiền thưởng và tiền phép năm, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ Bảng tính số tiền phải đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ - BNN ngày 28/9/2018 của Bảo hiểm xã hội quận Bình Tân xác định mức lương cơ bản hàng tháng nguyên đơn nhận từ tháng 6/2017 đến tháng 12/2017 là 3.938.000đ/tháng; tháng 01/2018 mức lương tăng theo quy định vùng là 4.179.000đ/tháng là phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn về mức lương cơ bản hàng tháng mà phía nguyên đơn đã nhận.

Do đó, đối với yêu cầu thanh toán lương ngừng việc tháng 10/2017, phía nguyên đơn khai trong tháng 10/2017 vì bị đơn không có việc làm nên có thỏa thuận với tất cả công nhân trả 70% lương ngừng việc trong những ngày không được làm việc; về phía bị đơn vắng mặt không rõ lý do và không có ý kiến phản bác lời trình bày của nguyên đơn. Hội đồng xét xử xét thấy, việc thỏa thuận này phù hợp với quy định tại Điều 98 Bộ luật lao động năm 2012 và khoản 1 Điều 26 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động năm 2012 nên 70% lương của 14.19 ngày công tháng 10/2017 tương ứng số tiền 1.504.467đ là có cơ sở chấp nhận.

Đối với yêu cầu 09 ngày công làm việc (lương, tăng ca và phụ cấp) của tháng 02/2018 là 2.395.245đ. Căn cứ theo Nghị định 141/2017/NĐ-CP ngày 7/12/2017 của Chính Phủ quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thì mức lương cơ bản tại thời điểm tháng 02/2018 là 4.472.000đ. Như vậy, tiền lương 09 ngày công làm việc (lương, tăng ca và phụ cấp) nêu trên là phù hợp nên có cơ sở chấp nhận.

Xét yêu cầu tiền thưởng năm 2017: Căn cứ vào thỏa ước lao động tập thể có thỏa thuận nếu người lao động làm đủ 01 năm sẽ được thưởng 01 tháng lương vào dịp Tết nguyên đán. Căn cứ vào kết quả xác minh của Công an phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, từ ngày 12/02/2018, Công ty ngừng hoạt động, đối chiếu lịch âm thì đây là khoảng thời gian diễn ra tết nguyên đán nên đến ngày 12/02/2018 thì nguyên đơn đã làm đủ 01 năm. Vì vậy, nguyên đơn yêu cầu được hưởng 01 tháng tiền thưởng Tết tương đương số tiền 3.938.000đ là có cơ sở chấp nhận.

Xét yêu cầu 17 ngày tiền phép năm: căn cứ vào thỏa ước lao động tập thể quy định: “01 năm làm việc thì được nghỉ 14 ngày phép và cứ 05 làm việc liên tục thì được hưởng thêm 01 ngày phép” việc thỏa thuận này giữa nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với Điều 114 Bộ luật lao động năm 2012 và khoản 3 Điều 26 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động năm 2012. Nguyên đơn căn cứ vào bảng tính lương phép năm của năm 2017 thì xác định được số ngày được nghỉ phép của nguyên đơn là 17 ngày và yêu cầu bị thanh toán số tiền phép năm, bị đơn vắng mặt không có ý kiến phản bác về vấn đề này nên số tiền phép năm được hưởng của nguyên đơn là 2.574.846đ là có cở sở chấp nhận.

Như vậy, từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân về việc thụ lý, giải quyết vụ án của Tòa án đã tuân thủ các thủ tục tố tụng dân sự. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Án phí có giá ngạch nên Công ty TNHH B phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 567.791đ (Năm trăm sáu mươi bảy nghìn, bảy trăm chín mươi một đồng).

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Khoản 1 Điều 32; điềm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 92; Điều 147; 217, 227, 228, 244, 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 22, 90, 98, 103, 111 và Điều 114 của Bộ luật lao động; Luật bảo hiểm xã hội 2014;

Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Điều 24 và Điều 26 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

1. 1. Buộc Công ty TNHH B phải thực hiện nghĩa vụ đóng Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho bà Nguyễn Thị T thời gian từ tháng 6/2017 đến tháng tháng 01/2018 với số tiền nợ gốc là 8.513.793đ (Tám triệu, năm trăm mười ba nghìn, bảy trăm chín mươi ba đồng). Việc nộp khoản tiền trên theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế. Thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, Công ty TNHH B còn chịu tiền lãi trên số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chưa đóng, chậm đóng theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế.

1.2. Buộc Công ty TNHH B phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị T các khoản nợ tiền lương, tiền thưởng năm 2017 và tiền nghỉ phép năm 2017, với tổng số tiền là 10.412.559đ (Mười triệu, bốn trăm mười hai nghìn, năm trăm năm mươi chín đồng), khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải trả thêm một khoản tiền ít nhất bằng số tiền trả chậm nhân với lãi suất trần huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương. Khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không quy định trần lãi suất thì được tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng của ngân hàng thương mại, nơi bị đơn mở tài khoản giao dịch thông báo tại thời điểm trả lương.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đòi trả và chốt sổ bảo hiểm xã hội của nguyên đơn.

3. Về án phí dân sự: Công ty TNHH B phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 567.791đ (Năm trăm sáu mươi bảy nghìn, bảy trăm chín mươi một đồng) và nộp tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự được thực hiện tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1042
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 180/2018/LĐ-ST ngày 28/11/2018 về tranh chấp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tiền lương

Số hiệu:180/2018/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về