Bản án 144/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 144/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 578/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 364/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1989 Địa chỉ: Số 28L7, đường Võ H, khóm Đông Thịnh x, phường Mỹ P, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Lý Minh X, sinh năm 1989 Địa chỉ: Số 226/5, đường Thoại Ngọc H (nay là đường Trần Nguyên H), khóm 6, phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Các đương sự có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2020, quá trình Tòa án giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị X do quen biết trước, cả hai đã tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2015 và đăng ký kết hôn vào ngày 10 tháng 4 năm 2015, tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến giữa 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải vã, đời sống vợ chồng không hạnh phúc. Nguyên nhân chính phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, chị X không tôn trọng gia đình bên chồng. Mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt nên Anh H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị X.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016. Hiện cháu Nguyễn Lý An N đang sống với chị X, khi ly hôn anh H đồng ý để chị X được tiếp tục nuôi con chung và anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng/tháng. Việc cấp dưỡng thực hiện kể từ ngày có quyết định của Tòa án cho đến khi con chung trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là chị Lý Minh X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với lời trình bày của anh H về quan hệ hôn nhân. Trong cuộc sống, vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng, chủ yếu là cãi vã nhỏ trong gia đình, do anh H sống ở thành phố Hồ Chí Minh 02 đến 03 tuần mới về thăm nhà một lần. Nguyên nhân anh H xin ly hôn là do anh có người phụ nữ khác ở bên ngoài nên không quan tâm đến gia đình và vợ chồng sống ly thân từ giữa tháng 06/2020 cho đến nay. Nay qua yêu cầu xin ly hôn của anh H thì chị không đồng ý ly hôn, chị muốn vợ chồng hàn gắn để lo cho con. Nếu anh H vẫn cương quyết ly hôn thì tùy Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016. Hiện cháu N đang sống với chị X. Nếu trường hợp Tòa cho ly hôn thì chị X xin được nuôi con và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng/tháng.

Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Về hôn nhân: Nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho anh H được ly hôn với chị X, vì cả hai có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Chị X xin được hàn gắn tình cảm vợ chồng để cùng nhau lo cho con.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016, hiện đang sống với chị X. Khi ly hôn, anh H đồng ý để chị X được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ, thực hiện kể từ ngày có quyết định của Tòa án cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi). Bị đơn chị X xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung nếu trường hợp vợ chồng ly hôn và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000đ cho đến khi con chung trưởng thành.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Anh Nguyễn Thanh H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Lý Minh X; đồng thời, anh H còn có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền nuôi con chung nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Lý Minh X với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại Số 226/5, đường Thoại Ngọc Hầu (nay là đường Trần Nguyên Hãn), khóm 6, phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị X tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự nguyện và anh, chị có đăng ký kết hôn Ủy ban nhân dân phường Mỹ L, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang vào ngày 10/4/2015 là phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Quá trình chung sống anh H cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng, tính tình không phù hợp nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân trong thời gian dài mà không thể hàn gắn. Riêng, chị X cho rằng quá trình chung sống vợ chồng có những mâu thuẫn nhỏ xuất phát từ trong sinh hoạt gia đình và về kinh tế nên vợ chồng có xảy ra cự cãi, anh H làm việc trên thành phố thỉnh thoảng có về thăm con nhưng từ khi làm đơn ly hôn thì anh H không về thăm con, chị X nhận thấy hôn nhân giữa chị và anh H không trầm trọng đến phải ly hôn và muốn vợ chồng hàn gắn để lo cho con nhưng nếu anh H kiên quyết ly hôn thì tùy theo quyết định của Tòa án.

Xét thấy, hôn nhân phải xuất phát từ sự tự nguyện và thương yêu nhau nhưng thực tế anh H và chị X có thời gian dài không chung sống cùng nhau thể hiện việc anh H làm việc trên thành phố từ lúc chị X mới sinh con và thỉnh thoảng về thăm con được vài lần, trong khi chị X thì làm việc ở Long Xuyên và Trong thời gian này cả hai chỉ lo cho công việc cá nhân nhau mà không quan tâm đến nhau cũng như có động thái nào để vun đắp tình cảm vợ chồng đều này được chị X và anh H thừa nhận. Từ đó, cho thấy ông bà đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân này sẽ ảnh hưởng không tốt cho cả hai nên việc anh H yêu cầu được ly hôn với chị X là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016. Hiện cháu N đang sống chung với chị X, khi ly hôn chị X xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và anh H cũng đồng ý để chị X được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Việc tự nguyện thỏa thuận của anh H, chị X là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.

Nếu sau này, chị X và anh H có thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc chị X không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giao dục con thì anh H được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Anh H là người không trực tiếp nuôi con chung nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 82, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị X và các thành viên gia đình chị X không được cản trở anh H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con không cố định.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị X yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000đ cho đến khi con chung trưởng thành. Anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000đ. Qua xem xét ý kiến của các bên, Hội đồng xét xử nhận thấy: Việc anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi còn là phù hợp với Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận. Các bên không thống nhất về mức cấp dưỡng nên Tòa án căn cứ vào Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết. Theo lời trình bày của anh H thì hiện nay anh đang làm kế toán thu nhập khoảng 8.000.000đ và đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh là nơi có mức sống tương đối cao so với thu nhập của anh H. Vì vậy, việc anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi) là phù hợp với Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận. Thời gian cấp dưỡng được tính kể từ ngày tuyên án là ngày 19/11/2020, mức cấp dưỡng sẽ được điều chỉnh theo từng thời điểm do pháp luật quy định.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh H và chị X trình bày là không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xét đến.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53; Điều 54; khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 58, Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 116; Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Thanh H và chị Lý Minh X.

[2] Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016.

Giao cháu Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016 cho chị Lý Minh X trực tiếp nuôi dưỡng. Chị X cùng các thành viên gia đình của chị X không được cản trở anh H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

[3] Về cấp dưỡng: Anh Nguyễn Thanh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Lý An N, sinh ngày 8/6/2016 mỗi tháng với số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng), thực hiện kể từ ngày 18/11/2020 cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi). Mức cấp dưỡng sẽ được thay đổi theo từng thời điểm do pháp luật quy định.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chưa giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Nguyễn Thanh H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con. Án phí chung anh H phải chịu là 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà anh H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005569, ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Anh H phải nộp thêm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 144/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:144/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về