Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kính động mạnh
Luật gia Nguyễn Thị Phương Anh - trả lời:
Theo thông tin anh (chị) nêu, người vợ trong tình huống trên có thể bị coi là phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh quy định tại Điều 95 theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) - Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh: “… giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…”.
Bởi theo quy định trên thì:
Hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình, không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường, nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Khi đó họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình.
Người phạm tội thực hiện hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra đối với người phạm tội hoặc đối với thân nhân của người phạm tội. Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là những hành vi tức thời hoặc cũng có thể là một chuỗi hành vi khác nhau lặp lại nhiều lần trong thời gian dài tác động đến người phạm tội, đến một thời điểm nào đó gây cho người phạm tội rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến người phạm tội có hành vi trái pháp luật với nạn nhân.
Hành vi trái pháp luật ở đây có thể cấu thành tội phạm hoặc chưa đến mức cấu thành tội phạm. Chỉ có thể định tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh khi có hậu quả chết người xảy ra. Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29.11.1986 của HĐTP TANDTC có hướng dẫn: “Tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi phạm tội của mình. Nói chung, sự kích động mạnh đó phải là tức thời do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây nên sự phản ứng dẫn tới hành vi giết người. Nhưng cá biệt có trường hợp do hành vi trái pháp luật của nạn nhân có tính chất đè nén, áp bức tương đối nặng nề, lặp đi lặp lại, sự kích động đó đã âm ỷ, kéo dài, đến thời điểm nào đó hành vi trái pháp luật của nạn nhân lại tiếp diễn làm cho người bị kích động không tự kiềm chế được; nếu tách riêng sự kích động mới này thì không coi là kích động mạnh, nhưng nếu xét cả quá trình phát triển của sự việc, thì lại được coi là mạnh hoặc rất mạnh. Trong trường hợp cá biệt hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cấu thành tội phạm nhưng là tội phạm ít nghiêm trọng (như tội làm nhục người khác, tội vu khống) thì cũng được coi là giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh…”.
Để có thể xác định tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không và để phân biệt giữa “kích động” với “kích động mạnh”, cần xem xét một cách khác quan, toàn diện các mặt: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm, diễn biến, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp của sự việc; mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội, trình độ văn hóa, chính trị, tính tình, cá tính của mỗi bên: mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Có nghĩa là người phạm tội không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình, mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi mà mình gây ra.
Người phạm tội trong trường hợp này là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đang trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm nếu giết một người hoặc có thể bị phạt từ từ 3 năm đến 7 năm nếu giết nhiều người.
Thư Viện Pháp Luật