Thời gian tính chi trả trợ cấp thôi việc như thế nào?
Trả lời: Theo quy định của Bộ luật lao động năm 1994 và các văn bản sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn thi hành, quy định chi tiết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1995(nay là Bộ luật Lao động năm 2012 có hiệu lực từ 01/5/2013) thì khi người lao động thôi việc ở doanh nghiệp nào thì thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động ở doanh nghiệp đó, việc chi trả phụ cấp và các chế độ khác (nếu có) cho người lao động thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động. Trường hợp được tuyển dụng vào làm việc ở doanh nghiệp khác thì thực hiện giao kết hợp đồng lao động mới và người sử dụng lao động, người lao động xác lập quan hệ lao động mới với quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật.
Do vậy, trường hợp người lao động thuộc công ty của bạn có thời gian công tác tại các doanh nghiệp khác và chuyển về công ty bạn từ năm 2007 mà chấm dứt hợp đồng lao động đúng pháp luật với công ty bạn thì công ty bạn giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho người lao động đối với thời gian người lao động làm việc thực tế tại công ty theo quy định, công ty bạn không có trách nhiệm phải chi trả trợ cấp thôi việc đối với thời gian người lao động làm việc ở những doanh nghiệp, đơn vị trước đó.
Theo Điều 48 Bộ luật lao động năm 2012, khi hợp đồng lao động chấm dứt thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.
Luật sư LÊ CAO (Nguồn: Báo Tuổi trẻ 24h ngày 19-8-2013)
Thư Viện Pháp Luật