Quy định về miễn chấp hành hình phạt tù
Việc miễn chấp hành hình phạt tù được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự 1999. Cụ thể: Điều 57 Bộ luật hình sự 1999 quy định miễn chấp hành hình phạt như sau:
- Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và nếu người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
- Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.
- Đối với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đã được hoãn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 61 của Bộ luật hình sự 1999, nếu trong thời gian được hoãn đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt.
- Đối với người bị kết án phạt tù về tội ít nghiêm trọng đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật hình sự 1999, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
- Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Theo quy định trên, chỉ miễn chấp hành hình phạt tù đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng. Vợ bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích, bị tuyên 04 năm tù, đây là tội nghiêm trọng do đó sẽ không thuộc trường hợp được miễn chấp hành hình phạt tù.
Trên đây là phần hỗ trợ của Ban biên tập Thư Ký Luật về miễn chấp hành hình phạt tù. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật hình sự 1999 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật