Dùng tiền chạy chọt nhưng không được việc có bị tội đưa hối lộ?
Hành vi đưa hối lộ và nhận hối lộ đã được quy định rõ trong Bộ luật Hình sự 1999 tại Điều 289 - Tội đưa hối lộ và Điều 279 - Tội nhận hối lộ.
Có thể nói, hối lộ là tội gây khá nhiều tranh luận trong dư luận xã hội cũng như trên các phương tiện truyền thông khi đưa tin về tội danh này. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu người nhận tiền, cầm tiền (chủ thể) không phải là người có chức vụ quyền hạn thì không thể coi họ phạm tội nhận hối lộ. Quan điểm này dựa trên cơ sở 4 yếu tố cấu thành tội phạm: chủ thể (con người), khách thể (quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ bằng luật), chủ quan (ý chí con người), khách quan (hành vi phạm tội của tội phạm), nếu thỏa mãn đầy đủ cả 4 yếu tố mới cấu thành tội (lý thuyết luật hình sự được nghiên cứu trong các trường đại học).
Quan điểm thứ hai cho rằng đây là loại tội phạm có cấu thành hình thức, tức là chỉ cần có hành vi khách quan là đủ không cần có thêm bất cứ yếu tố nào khác, không cần yếu tố khách thể có bị xâm hại hay không, còn đương nhiên yếu tố chủ thể và yếu tố chủ quan phải được thoả mãn.
Đối chiếu theo quy định tại Điều 289 Bộ luật Hình sự có quy định: “Người nào đưa hối lộ mà...”, như vậy rõ ràng yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ ở đây đã rõ. Luật quy định chỉ cần có hành vi đưa, chứ không nêu đưa cho ai, có chức vụ hay không, chức vụ như thế nào, luật cũng không quy định có đưa đúng người hay không. Và cũng với lý do này mới có khái niệm “cấu thành hình thức”, tức là chỉ cần có hành vi là đủ yếu tố cấu thành tội đưa hối lộ. Đây cũng là quan điểm được cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng, xem xét khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử.
Quay trở lại vụ việc được báo chí nêu, có thể thấy việc bà vợ một trung tá công an ở TPHCM đưa tiền nhờ người giúp chồng khỏi bị kỷ luật và cho ra khỏi ngành là đã có dấu hiệu tội phạm quy định tại Điều 289 Bộ luật Hình sự, không may bà vợ đã bị người cầm tiền lừa đảo số tiền đó. Vì vậy, việc khởi tố người cầm tiền và người đưa tiền nói trên ít nhiều đều có cơ sở. Tuy nhiên, sau này các bị can, bị cáo đều thay đổi lời khai về mục đích của việc đưa tiền (nhằm thực hiện hợp đồng san lấp mặt bằng dự án khu dân cư - PV). Đây là lời khai mới khác hẳn với mục đích ban đầu. Lẽ tất nhiên việc thay đổi này có vẻ khiên cưỡng, tiền hậu bất nhất, nhưng trong trường hợp này vẫn cần có sự đánh giá thống nhất lời khai giữa bị can, bị cáo, người bị hại và người làm chứng thì mới thể hiện được tính logic và thống nhất của tội danh, việc xem xét trách nhiệm hình sự mới được coi là có căn cứ pháp luật.
Trong trường hợp làm rõ và xác minh các chứng cứ có liên quan về lời khai mới, làm rõ tính khách quan chân thực cũng như các chứng cứ mới đi kèm đánh giá pháp lý, đánh giá một cách tổng hợp nếu các lời khai mới, chứng cứ mới có căn cứ để có thể chấp nhận được, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể đình chỉ vụ án.
Lẽ tất nhiên, để kết luận việc các bị can có bị tiếp tục khởi tố, truy tố và xét xử hay không còn tuỳ thuộc vào việc điều tra lại và việc đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng./.
Thư Viện Pháp Luật