Trường hợp nào người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền?
Thứ nhất, di sản dùng vào việc thờ cúng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của những người thừa kế theo di chúc. Trong trường hợp này, diện tích đất 50m2 ông A được thừa kế từ cha mình giống như 03 người anh trai của ông, tuy phần đất của ông A được ông dùng vào mục đích thờ cúng nhưng không được xác định là di sản thờ cúng theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự 2015:
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Như vậy, về mặt pháp lý, thửa đất 50m2 là di sản thừa kế ông A được nhận theo nội dung di chúc bố ông A để lại và sau khi hoàn thành các thủ tục luật định thì ông A sẽ chính thức trở thành chủ sở hữu đối với quyền sử dụng thửa đất 50m2 trên. Do đó, nếu Nhà nước có tiến hành thu hồi đất thì ông A đương nhiên được hưởng bồi thường với tư cách chủ sở hữu quyền sử dụng thửa đất.
Thứ hai, về hình thức bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.
Khoản 2 Điều 74 Luật đất đai 2013 quy định về Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất như sau: Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Như vậy, về nguyên tắc thì người có đất bị thu hồi sẽ được ưu tiên giao đất có cùng mục đích sử dụng, nếu không co đất để bồi thường thì sẽ được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Theo như thông tin bạn cung cấp thì diện tích đất bị thu hồi là đất ở nên việc giải quyết bồi thường được tiến hành theo quy định tại Khoản 1 Điều 79 Luật đất đai 2013 như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường như sau:
a) Trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở; trường hợp không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng tiền;
b) Trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì được xem xét để bồi thường bằng đất ở.
Như vậy, trong trường hợp có đất ở, nhà ở trên địa bàn xã phường, thị trấn nơi có đất thu hồi thì người sử dụng đất sẽ được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở. Người có đất bị thu hồi cũng có thể được bồi thường bằng tiền trong trường hợp không có đất ở, nhà ở trên địa bàn xã phường, thị trấn nơi có đất thu hồi hoặc có có đất ở, nhà ở trên địa bàn xã phường, thị trấn nơi có đất thu hồi nhưng không có nhu cầu sử dụng.
Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về trường hợp người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật dân sự 2015 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật