Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật
a) Hành vi khách quan.
Người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có thể thực hiện cả ba hành vi: bắt, giữ, giam người, nhưng cũng chỉ có thể thực hiện một hoặc hai trong ba hành vi đó. Do các hành vi này có cùng một tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật với tên tội danh gồm nhiều hành vi khác nhau, tương tự như Điều 194 Bộ luật hình sự quy định “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”; Điều 230 “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”; v.v..
Tuy nhiên, tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định tội danh, căn cứ vào hành vi mà người phạm tội thực hiện, như đã trình bày ở phần trên.
Bắt người trái pháp luật là hành vi bắt người mà không có lệnh của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, không thuộc trường hợp phạm tội quả tang, không thuộc trường hợp bắt người có lệnh truy nã hoặc tuy có lệnh của những người có thẩm quyền nhưng việc tiến hành bắt không đúng thủ tục, như bắt người vào ban đêm (sau 22h) mà không thuộc trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang. Hình thức bắt có thể là dùng vũ lực buộc bười bị bắt phải đến nơi mà người phạm tội đã chọn. Nếu trong quá trình bắt mà gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, của người bị hại thì tùy trường hợp cụ thể mà người t còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng với hành vi xâm phạm.
Giữ người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giữ người không đúng với quy định của pháp luật; giữ người không có lệnh của người có thẩm quyền; tạm giữ người quá hạn; giữ người thuộc trường hợp không được tạm giữ.
Giam người trái pháp luật là hành vi ra lệnh tạm giam người không đúng với quy định của pháp luật; giam người không có lệnh của người có thẩm quyền; giam người quá hạn; giam người thuộc trường hợp không được tạm giam.
Tính trái pháp luật trong việc bắt, giữ hoặc giam người là việc bắt, giữ hoặc giam người ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Vì vậy, khi xác định hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật hay không, cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về việc bắt, giữ hoặc giam người. Những quy định này có thể nằm trong luật hành chính nhưng chủ yếu là luật tố tụng hình sự.
Việc bắt, giữ hoặc giam người được quy định rất chặc chẽ, ngoài những trường hợp quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì mọi trường hợp bắt hoặc giam người đều là trái pháp luật. Khi xác định hành vi phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật cần phải đối chiếu với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính xem hành vi bắt, giữ hoặc giam người có đúng không.
b) Hậu quả
Hậu quả của hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trước hết là gây ra việc một người bị bắt, giữ hoặc bị giam oan. Ngoài ra, do bị bắt, bị giữ hoặc bị giam oan mà còn gây ra những hậu quả khác cho người bị hại hoặc hco gia định họ hoặc xã hội như: do bị bắt oan nên người bị bắt uất ức quá mà tự sát, bị tra tấn nhục hình gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe, v.v.. Hậu quả của tội phạm này không phải là dấu hiệu bắt buộc mà nếu có thì là dấu hiệu định khung hình phạt.
Nếu người phạm tội có ý định bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đã chuẩn bị phương tiên, địa điểm, lực lượng để thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt được người bị hại thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuận bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
Thư Viện Pháp Luật