Chào anh, Ban biên tập xin giải đáp như sau:
Theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm, theo đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sau đây:
(1) Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
(2) Sửa bản án sơ thẩm;
(3) Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm;
(4) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án;
(5) Đình chỉ xét xử phúc thẩm;
(6) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp 2013, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên cho đến khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản trả lời Tòa án kết quả xử lý.
Như vậy, theo mục (3) thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 310 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Việc thu thập chứng cứ và chứng minh không theo đúng quy định tại Chương VII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 hoặc chưa được thực hiện đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung được.
- Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của Bộ luật này hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 về thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án như sau:
- Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài, được quy định như sau:
+ Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
+ Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Lưu ý:
- Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
- Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
- Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm sẽ chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. Theo thủ tục xét sơ thẩm thì thời hạn xét xử vụ án sơ thẩm nhanh nhất là 01 tháng và chậm nhất là 04 tháng tùy thuộc vào tính chất mức độ phức tạp của vụ án và từng loại vụ án.