Người viết bài xin đưa ra một trường hợp cụ thể như sau:
Ngày 17/1/2019, anh D có nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), quyền sở hữu nhà gửi đến Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) huyện K để đăng ký biến động QSDĐ do tặng cho QSDĐ diện tích 542m2, thửa số 3201, tờ bản đồ số 5 tại xã TH, huyện K, tỉnh H, có giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả giải quyết ngày 21/2/2019. Tuy nhiên anh D không được trả kết quả giải quyết theo như giấy hẹn, anh D nhiều lần liên hệ nhưng chỉ được giải thích bằng miệng.
Tháng 8/2019, anh D làm đơn khiếu nại thì nhận được Văn bản số 111/VP-BPMC ngày 5/9/2019 của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thuộc UBND huyện K về việc trả lời đơn khiếu nại, với lý do “Theo Công văn số 01/VPĐKQSDĐ ngày 5/9/2019 của Văn phòng đăng ký đất đai thì thửa đất đang có tranh chấp nên Văn phòng đăng ký đất đai tạm dừng thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ và đề nghị anh D nhận lại hồ sơ”. Không đồng ý với nội dung trả lời của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, Văn phòng đăng ký đất đai huyện K nên anh D làm đơn khởi kiện hành vi hành chính không thực hiện việc đăng ký biến động QSDĐ đối với việc tặng cho tài sản và gửi đến Tòa án tỉnh Hải Dương.
Tòa án tỉnh Hải Dương cho rằng nội dung khởi kiện của anh D thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện K theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31 Luật Tố tụng hành chính (LTTHC) năm 2015, nên đã chuyển đơn cho Tòa án huyện K để giải quyết theo thẩm quyền. Tuy nhiên, quá trình giải quyết đơn khởi kiện của anh D có hai loại quan điểm khác nhau về việc xác định người bị kiện và thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chi nhánh Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện K tạm dừng thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ theo Công văn số 01/VPĐKQSDĐ ngày 05/9/2019 - là hành vi hành chính của UBND huyện K. Vì theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 37 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (Nghị định số 43/2014/NĐ-CP) thì UBND cấp huyện có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ. Do đó, Văn phòng đăng ký đất đai huyện K không được xác định tư cách tham gia tố tụng là người bị kiện mà người bị kiện trong trường hợp này là UBND huyện K. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31, khoản 4 Điều 32 LTTHC năm 2015, thẩm quyền giải quyết đối với nội dung khởi kiện của anh D là Tòa án tỉnh Hải Dương, nên cần hướng dẫn anh D sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện xác định người bị kiện là UBND huyện K, thay vì xác định người bị kiện là Văn phòng đăng ký đất đai của huyện K.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Văn phòng đăng ký đất đai thuộc UBND huyện K có con dấu riêng và được Nhà nước bố trí văn phòng, trang thiết bị làm việc theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Theo quy định của LTTHC thì người bị kiện là người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. Do đó, người bị kiện trong trường hợp này là Văn phòng đăng ký đất đai huyện K và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện K.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ:
- Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định: “1. Văn phòng đăng ký đất đai:
a) Văn phòng đăng ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường do UBND cấp tỉnh thành lập hoặc tổ chức lại trên cơ sở hợp nhất Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường hiện có ở địa phương; có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp luật. Văn phòng đăng ký đất đai có chức năng thực hiện đăng ký đất đai và tài sản khác gắn liền với đất; xây dựng, quản lý, cập nhật, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; cung cấp thông tin đất đai theo quy định cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu;
b) Văn phòng đăng ký đất đai có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng đăng ký đất đai theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
c) Kinh phí hoạt động của Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”.
Theo điểm e khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC quy định: “e) Các Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai.
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là đơn vị hạch toán phụ thuộc; có con dấu riêng và được Nhà nước bố trí văn phòng, trang thiết bị làm việc theo quy định của pháp luật”.
Từ đó ta thấy, Văn phòng đăng ký đất đai cấp tỉnh có tư cách pháp nhân, còn Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại các quận, huyện hay còn gọi là Văn phòng đăng ký đất đai cấp huyện không có tư cách pháp nhân (tuy có con dấu riêng nhưng hạch toán phụ thuộc nên không đủ điều kiện trở thành pháp nhân) và là chi nhánh của Văn phòng đăng ký đất đai cấp tỉnh. Do đó, trong vụ việc nêu trên người bị kiện chính là Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Hải Dương và thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND tỉnh Hải Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 30, Điều 32 Luật TTHC năm 2015.
Trên đây là quan điểm của tác giả về việc xác định người bị kiện và thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với trường hợp khởi kiện hành vi hành chính của Văn phòng đăng ký đất đai huyện K, xin đưa ra để trao đổi cùng bạn đọc.
Nguồn: Tạp chí Tòa án