Vợ chồng bà Nguyễn Thị N chết năm 2016 và ông Lâm Văn R chết trước năm 1975. Ông R, bà N có bốn người con chung là các ông, bà: Lâm Thị L, Lâm Văn H, Lâm Thị M, Lâm Thị Th. Năm 1997, Ủy ban nhân dân thị xã C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà N các thửa đất số 322, 363, 364, 365, 366, 859, 60, 861, 938 tờ bản đồ số 01 tọa lạc tại ấp Mỹ X, xã Tân Tr, thị xã C, tỉnh T. Năm 2016, bà N chuyển nhượng thửa đất 938 cho bà Đỗ Thị L. Ngày 30/11/2016, bà N lập di chúc được công chứng hợp pháp về việc cho bà M và bà Th 03 thửa đất số 860, 363, 861. Tuy nhiên, sau khi bà N chết thì ông H là người quản lý, sử, dụng đất nhưng không làm thủ tục sang tên cho bà M và bà Th nên hai bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, chia thừa kế theo di chúc đối với 03 thửa đất nêu trên.
- Năm 2016, bà N đã chuyển nhượng cho bà L thửa đất số 938, tuy không lập hợp đồng chuyển nhượng nhưng bà L đã thanh toán đầy đủ, có sự chứng kiến của các con bà N. Khi bà N chết, các đồng thừa kế trong gia đình bà N có tranh chấp di sản thừa kế. Các đương sự biết việc chuyển nhượng thửa đất số 938 nhưng không cung cấp nội dung này cho Tòa án mà tự thỏa thuận phân chia quyền sử dụng thửa đất này là trái quy định pháp luật.
- Sau khi phát hiện bà L khởi kiện, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên giao thửa đất cho bà L quản lý, như vậy cũng không đúng pháp luật vì thửa đất 938 đã được Tòa giả quyết bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Mời các bạn xem chi tiết tại: Thông báo 05/TB-VKS-DS-V4 ngày 24/02/2022.