Căn cứ theo khoản 1 Điều 52 Luật Đầu tư 2020 thì nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo các hình thức sau:
- Thành lập tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư;
- Đầu tư theo hình thức hợp đồng ở nước ngoài;
- Góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý tổ chức kinh tế đó;
- Mua, bán chứng khoán, giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài;
- Các hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
Tại khoản 1 Điều 67 Luật Đầu tư 2020 có quy định việc sử dụng lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư trong các trường hợp sau đây:
- Tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa góp đủ vốn theo đăng ký;
- Tăng vốn đầu tư ra nước ngoài;
- Thực hiện dự án đầu tư mới ở nước ngoài.
Trong đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 67 Luật Đầu tư 2020 có quy định về thủ tục mà nhà đầu tư phải thực hiện khi sử dụng lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tái đầu tư như sau:
- Trường hợp nhà đầu tư giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để tiếp tục góp vốn đầu tư ở nước ngoài trong trường hợp chưa góp đủ vốn theo đăng ký; hoặc tăng vốn đầu tư ra nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Điều 63 Luật Đầu tư 2020.
- Trường hợp nhà đầu tư giữ lại lợi nhuận thu từ đầu tư ở nước ngoài để thực hiện dự án đầu tư mới ở nước ngoài thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài tại Điều 61 Luật Đầu tư 2020.
Tại Điều 68 Luật Đầu tư 2020 có quy định việc chuyển lợi nhuận về nước như sau:
Điều 68. Chuyển lợi nhuận về nước
1.Trừ trường hợp giữ lại lợi nhuận theo quy định tại Điều 67 của Luật này, trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam.
2. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà không chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam thì nhà đầu tư phải thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được kéo dài không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này.
3.Trường hợp quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa chuyển lợi nhuận về nước và không thông báo hoặc trường hợp quá thời hạn được kéo dài quy định tại khoản 2 Điều này mà nhà đầu tư chưa chuyển lợi nhuận về nước thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trường hợp không giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, thì trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày có báo cáo quyết toán thuế hoặc văn bản có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư, nhà đầu tư phải chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được và các khoản thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài về Việt Nam.
Nếu không chuyển lợi nhuận và các khoản thu nhập khác về Việt Nam trong thời hạn 06 tháng này, thì nhà đầu tư phải thông báo trước bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thời hạn chuyển lợi nhuận về nước được kéo dài không quá 12 tháng kể từ ngày hết thời hạn 06 tháng theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Luật Đầu tư 2020 nêu trên.