[1] Xem: Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử. Điểm 1 Mục II “Tổ tụng hình sự”.
Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của các cấp Toà án. Theo đó:
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong đó:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội này là từ trên 07 năm đến 15 năm tù.
Để biết tội phạm mà bị can bị truy tố có thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực cần căn cứ vào hồ sơ vụ án; tội danh, điều khoản của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát quyết định truy tố.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự sau đây:
- Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực. Đó là những vụ án về những tội phạm sau:
+ Tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại bất cứ điều luật nào trong Bộ luật Hình sự. Đó là những tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự đối với tội ấy là trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình;
+ Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại: Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Chương các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong đó:
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII Bộ luật hình sự, bao gồm: Tội phản bội Tổ quốc; Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội; Tội phá hoại chính sách đoàn kết; Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phá rối an ninh; Tội chống phá cơ sở giam giữ; Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân; Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân;
Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI Bộ luật hình sự năm 2015, bao gồm: Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; Tội chống loài người; Tội phạm chiến tranh; Tội tuyển mộ, huấn luyện hoặc sử dụng lính đánh thuê; Tội làm lính đánh thuê.
Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự, bao gồm: Tội giết người; Tội giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh; Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên; Tội vi phạm quy định điều khiển tàu bay; Tội cản trở giao thông đường không; Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn; Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không; Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ; Tội điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội cản trở hoặc gây rối loạn của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông; Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước; Tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ tài liệu bí mật Nhà nước; Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; Tội ra bản án trái pháp luật; Tội ra quyết định trái pháp luật; Tội đầu hàng địch; Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh.
- Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài.
- Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. Về thủ tục, thì Chánh án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh hoặc cấp quân khu căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều tra viên của cấp huyện, cấp khu vực ở địa phương mình để xác định những vụ án cần lấy lên để điều tra, truy tố, xét xử. Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra cấp huyện, cấp khu vực trao đổi với Viện kiểm sát cùng cấp và chuyển hồ sơ lên Cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp quân khu để điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển sang Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự cấp khu vực thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự cấp khu vực chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu để Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu truy tố trước Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu. Nếu Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự cấp khu vực đã truy tố để xét xử ở Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực thì Tòa án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực trả hồ sơ cho Viện kiểm sát cấp để chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu truy tố trước Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu. Như vậy, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu chỉ có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực lên để xét xử khi có sự đồng thuận của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự cùng cấp.
3. Tại Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định về thẩm quyền xét xử các vụ án theo loại tội mà không khống chế thẩm quyền về quyết định hình phạt. Vì vậy, cần chú ý các trường hợp sau:
- Bị cáo phạm nhiều tội và các tội phạm đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực, thì Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự xét xử tất cả các tội phạm đó và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hình phạt chung có thể là phạt tù trên 15 năm; tù chung thân hoặc tử hình.
- Bị cáo đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đó phạm trước khi có bản án này hoặc phạm tội mới và các tội phạm đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực, thì Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc Toà án quân sự xét xử tất cả các tội phạm đó và tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hình phạt chung có thể là phạt tù trên 15 năm; tù chung thân hoặc tử hình.
Do vậy, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn “trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh”[1] là chưa thật chính xác.
4. Trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự còn quy định thẩm quyền xét xử về đối tượng người phạm tội như sau: Toà án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ Trung tá trở xuống hoặc là người có chức vụ từ Trung đoàn trưởng hoặc tương đương trở xuống; Toà án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo khi phạm tội hoặc khi bị khởi tố có quân hàm từ Thượng tá trở lên hoặc là người có chức vụ từ Sư đoàn phó hoặc tương đương trở lên.
Hiện nay, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 chỉ quy định thẩm quyền của Tòa án quân sự khu vực và Tòa án quân sự cấp quân khu là “sơ thẩm những vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự lại không quy định thẩm quyền về cấp bậc, chức vụ của người phạm tội của Tòa án quân sự cấp quân khu và khu vực như Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự. Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định một điểm mới về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự là xét xử các vụ án hình sự xảy ra trong khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, sử dụng. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn thẩm quyền xét xử về người phạm tội theo cấp bậc, chức vụ trong quân đội và vụ án xảy ra trong khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, sử dụng.
Nguồn: Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử
[1] Xem: Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử. Điểm 1 Mục II “Tổ tụng hình sự”.