Đặt vấn đề
Trong xã hội, khi mà các mối quan hệ kinh tế - xã hội chuyển động không ngừng, không thể tránh khỏi những va chạm, mâu thuẫn, xung đột về các giá trị, lợi ích giữa các chủ thể. Các phương thức được sử dụng để giải quyết tranh chấp trong các lĩnh vực đời sống xã hội rất phong phú và đa dạng như: trung gian, hoà giải, thương lượng, trọng tài hoặc thông qua hoạt động xét xử của TAND. Các đương sự được lựa chọn và quyết định sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp không thông qua thủ tục xét xử đó là sự thỏa thuận của các đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc trong phiên tòa xét xử.
Tác giả tập trung phân tích một số điều kiện để Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thông qua việc phân tích những quy định pháp luật có liên quan, nêu và phân tích những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật và từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.
1. Sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự
1.1. Quy định pháp luật
Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.
Tiếp đến tại điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định về nguyên tắc hòa giải, theo đó, các đương sự phải “tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình”.
Theo đó, khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp xuất phát từ ý chí định đoạt của đương sự. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau hay yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết là phụ thuộc vào quyết định của họ. Đây là cơ chế nhằm tăng cường hơn nữa quyền lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp cho các đương sự. Và việc quy định công nhận sự thoả thuận của các đương sự sẽ là một phương thức giải quyết tranh chấp tối ưu nhất để bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
Như vậy, xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, các bên bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ. Đương sự được tự do đưa ra những quyết định về những vấn đề, sự việc theo ý chí, nhận thức của mình mà không bị ai ngăn cản, hạn chế hoặc ràng buộc nào từ bên ngoài và ý chí thoả thuận đó hoàn toàn tự nguyện. Tuy nhiên, đương sự chỉ có thể định đoạt đối với những gì thuộc quyền hạn tuyệt đối của mình, chứ không được quyền định đoạt thay người khác. Không ai có quyền lừa dối, đe dọa, uy hiếp sự tự nguyện thoả thuận của người khác, bởi lẽ đấy cũng là một hình thức xâm hại đến quyền tự do của con người.
Ngoài ra, pháp luật quy định việc Tòa án tiến hành hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự phải xuất phát từ sự tự nguyện thực sự của đương sự. Sự tự nguyện này được thể hiện ở các nội dung sau: (i) Tự nguyện tham gia hòa giải; (ii) Tự nguyện thỏa thuận nội dung giải quyết vụ án; và (iii) Tòa án phải tôn trọng và ghi nhận những thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện của các đương sự về việc giải quyết các tranh chấp dân sự.
Như vậy là Tòa án không được can thiệp vào nội dung sự thỏa thuận của các đương sự, ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, Tòa án chỉ được ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận trên cơ sở những nội dung, những vấn đề mà các đương sự đã tự nguyện đồng ý sau khi thảo luận, thương lượng, cân nhắc và quyết định.
1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật
Mặc dù hiện nay pháp luật tố tụng đã quy định rõ trường hợp khi các bên tham gia hòa giải phải dựa trên sự tự nguyện của các bên đương sự nhưng trong thực tiễn xét xử vẫn còn có trường hợp Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận, điều này dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Vụ án thứ nhất[1]
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT - Chi nhánh huyện XM, tỉnh BTVT (Nguyên đơn, Ngân hàng) đã ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Mạnh T và bà Nguyễn Thị T (Bị đơn). Theo đó, bị đơn vay nguyên đơn với số tiền là 150.000.000 đồng, thời hạn vay là 24 tháng, khi vay vốn bị đơn có thế chấp quyền sử dụng đất cấp của hộ gia đình bị đơn cho Ngân hàng. Do bị đơn không trả được nợ nên nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn ra TAND tỉnh để thu hồi nợ.
Tại phiên hòa giải ngày 19/4/2011, các đương sự đã thỏa thuận việc giải quyết toàn bộ vụ án và TAND tỉnh BRVT đã ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 36/2011/QĐST-KDTM ngày 27/4/2011 (Quyết định) ghi nhận việc thỏa thuận trả nợ giữa các đương sự, nếu hết thời gian thỏa thuận mà không trả hết nợ thì tiến hành phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Tuy nhiên, sau đó Quyết định trên đã bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm (HĐXXGĐT) đã hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận nêu trên. Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng HĐXXGĐT đã căn cứ vào việc đương sự không thật sự tự nguyện khi thỏa thuận về việc giải quyết vụ án, có sự ép buộc của các bên (căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015, theo đó Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện của đương sự trong việc hòa giải và công nhận sự thỏa thuận của các bên, không được ép buộc họ thỏa thuận trái với ý chí của họ) để hủy Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm nêu trên.
Từ đây có một số vấn đề đặt ra như sau:
Thứ nhất, tiêu chí để xác định như thế nào là ép buộc khi mà chính đương sự có mặt và tham gia hòa giải, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án khi pháp luật hiện nay không có quy định tiêu chí cụ thể về vấn đề này.
Thứ hai, chứng cứ để xác định đương sự có sự ép buộc khi tham gia hòa giải và tự thỏa thuận việc giải quyết toàn bộ vụ án tại Tòa án là rất khó chứng minh trong khi biên bản hòa giải thành đều có chữ ký xác nhận của đương sự. Mặc khác, tại phiên hòa giải các đương sự không được phép tự ghi âm, ghi hình lại khi chưa có được sự đồng ý của Tòa án nên rất khó chứng minh.
Đối với các vụ án nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết theo hướng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia đình khi chỉ có người đứng tên đại diện trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tham gia ký kết, thực hiện hợp đồng thì vẫn được công nhận. Nhưng cấp giám đốc thẩm lại theo hướng hợp đồng phải được sự thống nhất thỏa thuận của các thành viên có quyền sử dụng đất chung của hộ.
Mặc khác, điều đáng nói trong quyết định này là sau khi Tòa án ban hành quyết định thì bà T khiếu nại cho rằng mình bị ép buộc ký vào biên bản hòa giải tại Tòa án, không có sự tự nguyện khi tham gia thỏa thuận.
Quan điểm của Tòa án cấp giám đốc thẩm: Khi giải quyết vụ án, TAND tỉnh BRVT đã không lấy lời khai của các đương sự để làm rõ những ai có quyền sử dụng đất hợp pháp; nguồn gốc tạo lập là của những ai; tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ ông Thường có những ai được hưởng quyền lợi đối với thửa đất này và họ có đồng ý với việc ông T, bà T ký hợp đồng thế chấp để vay tiền hay không; đồng thời bà T khiếu nại cho rằng bà không tham gia ký kết vào hồ sơ vay vốn, thế chấp và bị ép ký vào biên bản hòa giải. Từ đó tuyên hủy quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự nêu trên.
Quan điểm tác giả: Theo quy định hiện hành, việc thế chấp quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình được thực hiện thông qua người đại diện và có sự thỏa thuận thống nhất của tất cả thành viên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Việc tham gia xác lập, giao kết hợp đồng phải do chủ hộ thực hiện, đồng thời là người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình, mà không thể là thành viên nào khác. Như vậy sẽ đảm bảo bên thứ ba dễ dàng xác định được tư cách chủ thể tham gia hợp đồng, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. Việc cấp giám đốc hủy án cấp sơ thẩm do vi phạm nội dung là hoàn toàn đúng và phù hợp với quy định của pháp luật.
Xét về sự tự nguyện khi tham gia hòa giải, thỏa thuận tại Tòa án các bên phải thật sự tự nguyện, nếu không tự nguyện mà bị ép buộc thì được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có chứng cứ chứng minh thì cấp giám đốc thẩm hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận này là hoàn toàn đúng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tiêu chí nào xác định đương sự không tự nguyện tham gia thỏa thuận khi quyết định công nhận sự thỏa thuận này được ban hành đúng pháp luật và đúng tình tiết, sự kiện tại thời điểm Tòa án ban hành quyết định. Thời điểm hòa giải đương sự tham gia đã tự nguyện thỏa thuận và được Tòa án ghi nhận bằng biên bản hòa giải thành nhưng sau khi Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì đương sự lại cho rằng mình bị ép buộc, không tự nguyện nhằm mục đích gây bất lợi cho đương sự khác trong vụ án.
Do đó, vấn đề này rất cần sự hướng dẫn của TANDTC. Có thể hướng dẫn theo hướng trong trường hợp các đương sự trong phiên hòa giải, các bên đã thật sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án và không có khiếu nại về nội dung hòa giải thì sau khi hết thời hạn hòa giải và Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì coi như đương sự đã thật sự tự nguyện thỏa thuận với nhau. Để tránh trường hợp các bên đương sự lợi dụng sự tự nguyện để gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án và quá trình áp dụng pháp luật được thống nhất trong thực tiễn xét xử.
2. Nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội.
2.1. Quy định pháp luật
Điều 123 BLDS năm 2015 quy định: “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định;”.
Và tại khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 quy định khi tiến hành hòa giải Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự và nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Đây chính là hai trong số ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, bởi lẽ suy cho cùng hòa giải là do chính các đương sự thỏa thuận và thực hiện. Vì thế, việc các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án cũng tương đồng với việc các chủ thể đang thỏa thuận trong giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật dân sự. Như vậy, để thỏa thuận có hiệu lực thì phải tuân theo các quy định của pháp luật, điều này được quy định cụ thể trong BLDS năm 2015.
Nội dung thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm của luật có thể được hiểu là: Khi tiến hành thỏa thuận giải quyết nội dung vụ án đương sự không được quyền thỏa thuận những nội dung mà luật không cho phép đương sự thỏa thuận hay nói cách khác là những nội dung mà điều luật cấm.
Do đó, mọi thỏa thuận vi phạm điều với cấm của pháp luật đều không được thừa nhận, không có giá trị pháp lý. Mặc dù pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thỏa thuận của mỗi cá nhân, tổ chức nhưng nếu thỏa thuận này vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, cũng đồng nghĩa với việc thỏa thuận của các bên đang xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của người thứ ba và của cộng đồng xã hội thì nội dung thỏa thuận đó sẽ không được pháp luật bảo vệ và thừa nhận.
Nếu giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội đã vô hiệu ngay từ khi giao kết. Các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để giải quyết hành vi trái pháp luật của mình. Ví dụ, trường hợp kiện đòi tài sản vay là Đôla Mỹ, kiện đòi tiền nợ do sinh con thuê… Tuy nhiên, thực tiễn nhiều giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật do những nguyên nhân khách quan nên khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xem xét thận trọng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Khi giải quyết loại vụ án này, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật
Theo quy định tại Điều 123 BLDS năm 2015 “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” và có định nghĩa về điều cấm của luật theo đó “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Để hiểu được nội dung của luật đối chiếu với tình hình thực tế có những quy định chưa thật sự rõ nét và cụ thể.
Chẳng hạn như tại khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 117 Luật Nhà ở năm 2014 quy định theo hướng liệt kê các quyền của người sử dụng đất và các quyền giao dịch về nhà ở mà không thể hiện rõ là nếu ngoài các quyền đó thì có cấm hay không và các quy định này cũng không nói rõ rằng chỉ có những quyền đó, còn các quyền khác như cầm cố thì cấm hoặc được phép giao dịch vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện nay một số Tòa án cho rằng cầm cố nhà và cầm cố quyền sử dụng đất là luật cấm nên tuyên hủy giao dịch hoàn trả cho nhau những gì đã nhận còn một số Tòa án cho rằng luật không quy định, không có điều luật nào cấm cũng không nêu rõ chỉ có các quyền được liệt kê trong điều luật đó, do đó không cấm nên có thể áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết.[2]
Vụ án thứ hai[3]
Ngày 04/4/2012, giữa ông P, bà Đ (Nguyên đơn) và ông N, bà T (Bị đơn) có xác lập hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất với diện tích 4,5 công đất ruộng, thời hạn cố đất là 03 năm với số tiền là 100.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng nguyên đơn đã giao đủ tiền nhưng bị đơn không giao đất nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu TAND huyện CT, tỉnh AG hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất trên, đồng thời yêu cầu bị đơn trả lại tiền cố đất cùng tiền lãi.
Quan điểm của Hội đồng xét xử sơ thẩm: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại các Điều 117, 119, 122, 123, 309, 310; Điểm b khoản 1 Điều 688 của BLDS năm 2015; Điều 106 của Luật Đất đai năm 2003 và Điều 166 của Luật Đất đai năm 2013 xác định đây là hợp đồng cầm cố tài sản (quyền sử dụng đất) đã vi phạm điều cấm của luật nên tuyên xử vô hiệu đồng thời căn cứ Điều 131 của BLDS năm 2015 để giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu này.
Từ nội dung vụ án trên vấn đề đặt ra về tiêu chí để xác định điều cấm của luật hiện nay chưa quy định cụ thể. Điều luật quy định theo hướng liệt kê thì những trường hợp không được luật liệt kê có được xem là vi phạm điều cấm của luật không. Vụ án trên cũng có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Tòa án tuyên hủy giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất là đúng vì cho rằng người sử dụng đất chỉ được phép thực hiện giao dịch trong phạm vi những quyền mà pháp luật quy định cụ thể “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”[4] không đề cập đến quyền cầm cố quyền sử dụng đất do đó nếu người sử dụng đất thực hiện giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất sẽ vi phạm điều cấm, trái luật nên giao dịch này bị vô hiệu.
Quan điểm thứ hai: Trong vụ án trên các bên đã tự nguyện thực hiện giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất từ khi xác lập đến khi thực hiện xuất phát từ tập quán cố đất ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Giao dịch cố đất chưa được luật điều chỉnh chứ không phải là cấm nên việc Tòa án cho rằng giao dịch trên vi phạm điều cấm là không đúng. Theo khoản 1 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Ở đây luật không đề cập đến từ “chỉ” mà rõ ràng là luật chưa quy định việc giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất nên cần áp dụng pháp luật tương tự trong phần cầm cố tài sản và các văn bản hướng dẫn để giải quyết.
Quan điểm của tác giả: Đồng ý với quan điểm thứ hai và hiểu như quan điểm này mới thật sự hợp lý đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên. Cụ thể xét giao dịch trên ta thấy nội dung thỏa thuận đã thỏa mãn đối với hợp đồng cầm cố tài sản tuy nhiên về hình thức thì không đạt, để hoàn thiện về hình thức Tòa án nên ấn định cho một thời gian hợp lý nếu các bên tuân thủ đúng quy định pháp luật thì công nhận chứ không nhất thiết phải tuyên hủy giao dịch. Căn cứ vào quy định tại Điều 131 của BLDS năm 2015 “Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”, rõ ràng trong trường hợp này luật không hề cấm, hay không cho phép chủ thể thực hiện hành vi cố đất. Do đó, chủ thể hoàn toàn có quyền làm những gì mà pháp luật không cấm.
Có thể thấy hiện nay quy định về điều cấm của luật vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp luật vào trong thực tiễn gặp nhiều khó khăn, chưa có tính thống nhất từ đó gây ảnh hưởng trực tiếp đến các bên tham gia giao dịch. Do đó vấn đề đặt ra là cần phải có những quy định, hướng dẫn cụ thể trong việc áp dụng pháp luật để các bên yên tâm tham gia vào giao dịch dân sự đồng thời tạo được sự thống nhất trong thực tiễn xét xử của Tòa án.
3. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, Từ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tác giả kiến nghị TANDTC nên có văn bản hướng dẫn thi hành điểm a khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 theo hướng như sau:
“Trong trường hợp các đương sự trong phiên hòa giải, các bên đã thật sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án và không có khiếu nại về nội dung hòa giải thì sau khi hết thời hạn hòa giải và Tòa án ra Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì coi như đương sự đã thật sự tự nguyện thỏa thuận với nhau”.
Thứ hai, Tác giả kiến nghị TANDTC nên có văn bản hướng dẫn thi hành điểm b khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 theo hướng nên có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp điều cấm của luật, nếu luật quy định theo hướng liệt kê thì cần phải thể hiện rõ nếu chỉ quy định trong phạm vi các quy định của luật thì ngoài phạm vi đó sẽ vi phạm điều cấm của luật hoặc cần quy định rõ là chỉ có các quyền trong khuôn khổ điều luật đó mà thôi còn ngoài những quy định theo hướng liệt kê đó thì vi phạm điều cấm của luật.
Ví dụ như khoản 1 Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Nếu ngoài những quyền này thì vi phạm điều cấm của luật.
Nguồn: Tạp chí Tòa án