Chào anh, đối với nội dung anh yêu cầu, Ban biên tập xin gửi đến anh một số bản án sau:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Đoàn Minh L là Cảnh sát khu vực tại Công an Phường X2, Quận X4, Thành phố Hồ Chí Minh. Hoàng Thanh T1 là Cảnh sát phòng chống tội phạm Công an Phường X2, Quận X4. Chung cư G, địa chỉ: 278-283 B thuộc Khu phố 1, Phường X2, Quận X4, Thành phố Hồ Chí Minh thuộc địa bàn được phân công quản lý của Đoàn Minh L và Hoàng Thanh T1. Để L và T1 không kiểm tra 02 căn hộ G14.02 và G6.02 chung cư G, phát hiện phát hiện 06 đối tượng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy gồm Nguyễn Văn Đ, Lữ Nhựt S, Phạm Bá H3, Hà Mạnh L3, Lỗ Hoài P2 và Dương Minh L4. Nguyễn Văn Đ (người thuê 02 căn hộ trên) đã thỏa thuận đưa tiền cho L và T1. Nguyễn Văn Đ đã nhiều lần đưa tiền cho bị cáo Đoàn Minh L, với số tiền tổng cộng 25.000.000 đồng và nhiều lần đưa tiền cho bị cáo Hoàng Thanh T1 với số tiền tổng cộng là 56.000.000 đồng. Trong đó, Đoàn Minh L được hưởng lợi tổng cộng số tiền 45.000.000 đồng, Hoàng Thanh T1 được hưởng lợi số tiền 26.000.000 đồng, Vương Đình T4 nhận 10.000.000 đồng.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 13/5/2020, Nguyễn Văn T là Thẩm phán sơ cấp, được Chánh án Tòa án nhân dân thành phố K, tỉnh Kon Tum phân công thụ lý giải quyết, xét xử vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng và chia tài sản khi ly hôn” giữa bà Nguyễn Thị Thanh D1 và ông Nguyễn Thanh B. Lợi dụng việc ông Nguyễn Thanh B có thái độ không hợp tác trong quá trình giải quyết vụ án, còn bà Nguyễn Thị Thanh D1 muốn giải quyết nhanh vụ án, Nguyễn Văn T chủ động gọi cho bà Nguyễn Thị Thanh D1 để trao đổi về các nội dung khởi kiện nhằm làm cho bà D1 thấy những khó khăn trong việc giải quyết vụ án, muốn giải quyết được các yêu cầu khởi kiện thì phải nhờ T giúp đỡ. Sau đó, bà D1 đã nhờ T giải quyết nhanh các yêu cầu nhu nội dung đơn khởi kiện. Đồng thời Nguyễn Văn T chủ động yêu cầu bà Nguyễn Thị Thanh D1 phải đưa cho T số tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng để giúp giải quyết vụ án nhanh và theo nội dung khởi kiện của bà D1. Để che dấu hành vi nhận hối lộ, T nói bà D1 đưa số tiền trên với danh nghĩa để cảm ơn và đưa sau khi xét xử xong vụ án. T không nói cho ai biết việc đòi và nhận tiền của bà D1. Trong khi tiếp tục xét xử vụ án T không tuyên xử 02 lô đất tại xã C, thành phố K và khoản vay nợ 300.000.000 đồng theo yêu cầu khởi kiện của bà D1 là do ông Nguyễn Thanh B không phối hợp giải quyết, việc này ngoài ý muốn của T. Sau đó bà Nguyễn Thị Thanh D1 làm đơn tố cáo hành vi nhận hối lộ số tiền 20.000.000 đồng của Nguyễn Văn T. Khi biết bà D1 tố cáo, T đã đồng ý để vợ là bà Hà Thị Bé E mang trả lại cho bà D1 số tiền 20.000.000 đồng và đã viết thư xin lỗi gửi bà D1.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Trích dẫn nội dung: “Nguyễn Văn N, nguyên là Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông N, huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk và ông Lê Thái H, nguyên là giáo viên dạy môn Thể dục, giáo dục quốc phòng an ninh tại Trường trung học phổ thông N. Tháng 09/2014 vợ của ông Lê Thái H sinh đôi, nên ngày 08/01/2015 ông H làm đơn xin nghỉ việc không lương (Từ ngày 01/01/2015 đến 30/5/2015) để về thành phố N. H đã làm đơn trình bày lý do xin nghỉ với tổ bộ môn Thể dục, giáo dục quốc phòng an ninh và được ông Phạm Thanh T là Tổ trưởng bộ môn và bà Hoàng Thị Thúy H chủ tịch công đoàn ký xác nhận. Sau đó ông H mang đơn đề nghị lên Nguyễn Văn N là Hiệu trưởng nhà trường cho nghỉ với nội dung theo đơn. N không có ý kiến xác nhận vào đơn mà chỉ nói trực tiếp với H là việc giải quyết nghỉ rất khó khăn nên đơn xin nghỉ việc không lương của ông H không được N chấp thuận. Ông H đã đến nhà riêng của N để tiếp tục xin nghỉ dạy, tuy nhiên N chỉ đồng ý cho H nghỉ 03 tuần. Sau đó H muốn nghỉ dạy dài hơn, do vậy H liên lạc qua điện thoại với N để xin nghỉ dạy dài ngày (khoảng 03 tháng). Thông qua liên lạc này, H gợi ý đưa tiền cho N, đồng thời hứa hẹn mỗi tháng được giải quyết nghỉ sẽ gửi cho N từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. N đã đồng ý.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận
- Trích dẫn nội dung: “Trưởng Thị Tiến L là công chức, công tác tại Ủy ban nhân dân xã C, được phân công nhiệm vụ chịu trách nhiệm chung lĩnh vực địa chính – Xây dựng – Nông nghiệp và Môi trường, phụ trách lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trật tự xây dựng, giải quyết đơn thư khiếu nại và trực tại bộ phận một cửa; tiếp nhận, xử lý và tham mưu Ủy ban nhân dân xã, Hội đồng đăng ký đất đai xét cấp đối với các hồ sơ của người sử dụng đất có đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn xã. Ngày 01/10/2020, Nguyễn Văn Th đến Ủy ban nhân dân xã C gặp Trưởng Thị Tiến L nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nộp hồ sơ, Th nhờ L đóng các loại phí có liên quan, L đồng ý. Th đưa cho Lên 3.700.000 đồng, cụ thể: Lần 1: 500.000 đồng tiền phí công chứng hợp đồng ủy quyền; Lần 2: 700.000 đồng phí trích lục; Lần 3: 2.500.000 đồng đóng tiền phí, lệ phí có liên quan. Số tiền trên L đã chi hết vào việc đóng các phí, lệ phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. L tiếp tục tham mưu cho Ủy ban nhân dân xã chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai N, chi nhánh huyện Thuận N để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Th. Sau đó Trưởng Thị Tiến L thụ lý lại hồ sơ để bổ sung tài liệu theo yêu cầu. Nguyễn Văn Th gọi điện thoại hỏi L cần bao nhiêu tiền để hoàn thành hồ sơ, L nói 10.000.000 đồng, Th đồng ý. Th gửi trước cho L 5.000.000 đồng, cố gắng hoàn thiện hồ sơ, khi nào xong báo anh để gửi thêm và đưa 5.000.000 đồng…”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Hồ Quỳnh P là chuyên viên thanh quyết toán của Công ty TNHH Tư vấn và Xây dựng V thuộc khu phố L. Công ty TNHH kỹ thuật và Xây dựng M, địa chỉ: Khu phố A, phường B, quận C có ký hợp đồng thi công hạng mục gói thầu “đào, vận chuyển đất trên mặt đường trở ra khỏi công trường đường vành đai 3” thuộc dự án khu đô thị V, phường T, thành phố Thủ Đức, trị giá hợp đồng là 1.836.224.775 đồng, thời hạn là 02 năm (đơn giá m3 là 35.000 đồng). Công ty M giao cho anh Trương Bá N là đại diện công ty liên hệ với P làm thủ tục tạm ứng, thanh và quyết toán tiền theo hợp đồng đã ký kết. Ngày 15/01/2020, anh N lập hồ sơ quyết toán tạm ứng gửi tập đoàn Z. Tập đoàn Z giao hồ sơ cho P giải quyết thanh toán tạm ứng đợt 1 với số tiền là 918.112.388 đồng cho anh N. Ngày 16/4/2020, anh N gửi đến P hồ sơ thanh toán đợt 2 với số tiền 470.291.620 đồng. Sau khi P nhận hồ sơ, kiểm tra thấy thiếu phiếu vận chuyển 3.383m3 đất, P yêu cầu anh N muốn thanh toán được số tiền đợt 2 thì phải chia đôi trị giá 3.383m3 đất tương đương với số tiền 65.000.000 đồng, thì mới làm thủ tục quyết toán cho Công ty M. Sau đó P đồng ý cung cấp số tài khoản ngân hàng của vợ P để nhận tiền của khách hàng. Ngày 09/6/2020, Hồ Quỳnh P đã nhận số tiền 30.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản từ anh N để giải quyết hồ sơ thanh quyết toán tiền nhanh cho Công ty M. Tuy nhiên, sau khoảng hơn 1 năm từ ngày chuyển tiền, P vẫn chưa làm xong hồ sơ quyết toán còn lại cho Công ty M. Ngày 15/4/2021, anh N làm đơn tố cáo P đến Công an thành phố Thủ Đức.”