Chào anh, đối với nội dung anh yêu cầu, Ban biên tập xin gửi đến anh một số bản án sau:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 25/02/2021, Tổ 21 tuần tra trên tuyến đường Trần Hưng Đạo, thành phố C thì phát hiện xe ô tô biển kiểm soát 65A-068.xx do Lâm Hoàng M điều khiển, có hành vi vi phạm, không mở đèn chiếu sáng vào ban đêm và người ngồi trên xe không thắt dây an toàn, nên lực lượng tổ 21 ra hiệu lệnh yêu cầu dừng xe để kiểm tra, sau khi bị cáo được thông báo lỗi vi phạm nêu trên, M đi đến gặp ông Lê Hoàng Đ đang ngồi trên xe ô tô Cảnh sát 113 là người trực tiếp chỉ đạo kiểm tra, M thừa nhận với ông Đ là đã có uống bia trước khi lái xe nên ông Đ chỉ đạo lực lượng Tổ 21 đo nồng độ cồn trong hơi thở để xử lý, thì ông M lấy toàn bộ số tiền 2.140.000đ đưa cho ông Đ để xin bỏ qua lỗi vi phạm, cho nhận lại xe, không xử lý vi phạm nồng độ cồn, tuy nhiên ông Đ không nhận tiền mà chỉ đạo lực lượng mời M về trụ sở Cảnh sát 113 Công an tỉnh C để đo nồng độ cồn, kết quả kiểm tra nồng độ cồn ông M là 0,644mg/lít khí thở nên Tổ 21 lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và lập biên bản về việc M đưa hối lộ cho ông Đ với số tiền 2.140.000đ và tạm giữ tang vật.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bình Phước
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 11/9/2019 Lý Trường G từ Lào về Việt Nam trên 01 chuyến xe khách, khi xe đến cửa khẩu quốc tế H, tỉnh Bình Phước, qua kiểm tra hành lý và hàng hóa trên xe, phát hiện trong số hàng hóa trên xe có chứa 16kg chất rắn màu trắng. Nghi là ma túy nên đồn cửa khẩu H đã đưa xe ô tô và tài xế lái xe cùng những hành khách đi trên xe về đồn cửa khẩu quốc tế H để làm việc đồng thời đồn cửa khẩu quốc Tế H đã thông báo cho phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy phối hợp điều tra. Trong số các hành khách đó có Lý Trường G. Qua công tác điều tra, có xét nghiệm nước tiểu của Lý Trường G kết quả cho thấy G có sử dụng ma túy. Do G sợ lập hồ sơ đưa đi cai nghiện, gia đình biết nên trong lúc làm việc với anh Hoàng H, G đã dùng số tiền 1.500USD đưa cho anh H và xin anh H bỏ qua chuyện G có sử dụng ma túy. Anh H đã giữ lấy tay của G cùng với số tiền đồng thời thông báo với đồn cửa khẩu quốc tế H tiến hành lập biên bản về hành vi đưa hôi lộ của Lý Trường G và thu giữ số tiền 1.500USD của bị cáo.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 19/11/2021, Tổ TTKS đảm đảo an ninh trật tự vào ban đêm của Công an Tỉnh Cà Mau thực hiện việc tuần tra, kiểm soát trên tuyến đường Quảng lộ P, thành phố Cà Mau thì phát hiện Võ Văn Th đang điều khiển xe chở vợ có biểu hiện nghi vấn vi phạm nồng độ cồn nên ông Lê Hoàng Đ chỉ đạo lực lượng tổ tuần tra ra hiệu lệnh yêu cầu Võ Văn Th dừng phương tiện, yêu cầu xuất trình giấy tờ và lực lượng TTKS kiểm tra nồng độ cồn đối với Võ Văn Th. Kết quả kiểm tra nồng độ cồn, Võ Văn Th vi phạm lỗi nồng độ cồn, với mức 0,580mg/lít khí thở vượt qúa chỉ số cho phép (chỉ số cho phép là 0,4mg/l khí thở). Sau khi Võ Văn Th được lực lượng TTKS thông báo lỗi vi phạm và tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính. Trong khi đang bị lập biên bản vi phạm hành chính, Võ Văn Th đi đến chỗ đồng chí Lê Hoàng Đ năn nỉ xin bỏ qua lỗi vi phạm, xin nhận lại xe và đưa số tiền 2.000.000 đồng cho đồng chí Đ yêu cầu bỏ qua lỗi vi phạm. Đồng chí Đ không nhận và lập biên bản bắt người tội quả tang đối với Võ Văn Th cùng tang vật.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
- Trích dẫn nội dung: “Quá trình làm việc với Lưu Đức T vào ngày 18/12/2019, T1 có đặt vấn đề nhờ T cho T1 hoãn đưa đi cai nghiện bắt buộc do chuẩn bị cưới vợ. T hỏi T1 lo được bao nhiêu tiền, T1 nói có thể lo được 5.000.000đ, sau đó T và T1 thống nhất T1 sẽ đưa cho T số tiền 20.000.000 đồng để được hoãn đưa đi cai nghiện bắt buộc. Sau khi thỏa thuận, T cho T1 quay về nhà lấy tiền rồi quay lại đưa cho T số tiền 5.000.000đ, số còn lại T1 hứa với T sẽ quay lại đưa nốt số còn thiếu. T đồng ý và để cho T1 đi về, sau đó T gọi điện cho anh Lê Quang H1 báo cáo T1 đã bỏ trốn. Khoảng 11 giờ ngày 21/12/2019, T1 gọi điện thoại cho T hẹn ra gặp T1 nói với T là chưa lo đủ tiền và đưa T số tiền 4.000.000 đồng, T nhận tiền và yêu cầu T1 phải đưa nốt số tiền còn lại cho đủ 20.000.000 đồng như đã thỏa thuận. Quá trình trao đổi và giao nhận tiền Bùi Văn T1 có ghi âm, ghi hình và tố cáo hành vi nhận tiền của T. Lưu Đức T đã trả lại cho T1 9.000.000 đồng nhưng T1 không nhận, sau đó T đã bàn giao lại số tiền trên cho Công an huyện Yên T và lập biên bản làm việc thu giữ số tiền nêu trên trong quá trình kiểm tra người của T1.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Trích dẫn nội dung: “Lợi dụng chính sách cho thu gom mua, bán gốc, rễ, cành, nhánh loại cây gỗ trắc theo thời điểm trước ngày 03/02/2007. Sau tháng 12/2007 không được phép thu gom mua bán. Công ty TNHH Trường K và Công ty TNHH K do Nguyễn Duy K thành lập và điều hành đã sử dụng hồ sơ giả về việc mua gom lâm sản trên địa bàn xã S, tỉnh Kon Tum để làm hồ sơ chứng minh nguồn gốc mua bán lâm sản, cụ thể: Sử dụng hồ sơ giả đứng tên Nguyễn Văn T5 mua gom gỗ để bán 15,43 m3 gỗ cho Phạm Ngọc Q ngày 06/10/2011; sử dụng hồ sơ giả đứng tên Đào Văn C mua gom gỗ để làm thủ tục bán 120 ster gỗ hương cho Công ty TNHH T; sử dụng hồ sơ giả đứng tên Nguyễn Hữu T1 mua gom gỗ để làm thủ tục bán 52 ster gỗ hương cho Công ty cổ phần Đ ngày 08/8/2011; sử dụng hồ sơ giả đứng tên Nguyễn Văn C mua gom gỗ để làm thủ tục bán 20 ster gỗ trắc cho cơ sở mộc dân dụng Phú ngày 18/4/2011. Những bộ hồ sơ giả trên đều do Nguyễn Duy K nhờ Ngô Văn T là người làm thuê lập báo cáo định kỳ cho Công ty TNHH Trường K, Công ty TNHH K hợp thức hồ sơ gỗ đầu vào để sử dụng bán tổng số là 192 ster và 15,43 m3 gỗ nhóm IIA cho Phạm Ngọc Q, Công ty TNHH T3 Q, Công ty Cổ phần Đ và Cơ sở mộc dân dụng Phú C. Ngô Văn T đã có hành vi đưa hối lộ 50.000.000đ cho Nguyễn Anh T1 (Kiểm lâm địa bàn xã S) làm giả 15 bộ hồ sơ để hợp thức nguồn gốc lâm sản. Nguyễn Anh T1 đã có hành vi nhận hối lộ 50.000.000đ từ Ngô Văn T, sau đó đưa hồ sơ cho Đinh Văn N, Phó Chủ tịch UBND xã S xác nhận để ký vào biên bản và các tài liệu khác trong hồ sơ mua gom lâm sản, đồng thời đưa 3.000.000đ cho Đinh Văn N để cùng Đinh Văn N làm giả 15 bộ hồ sơ để hợp thức nguồn gốc lâm sản theo yêu cầu của Ngô Văn T.”