Theo Điều 72 Luật đấu giá tài sản 2016 quy định về kết quả đấu giá tài sản bị hủy trong các trường hợp sau đây:
(1) Theo thỏa thuận giữa người có tài sản đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản và người trúng đấu giá về việc hủy kết quả đấu giá tài sản hoặc giữa người có tài sản đấu giá và người trúng đấu giá về việc hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
(2) Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật về dân sự trong trường hợp người trúng đấu giá có hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 5 Điều 9 của Luật đấu giá tài sản 2016;
(3) Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật đấu giá tài sản 2016;
(4) Người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, tổ chức đấu giá tài sản, đấu giá viên có hành vi thông đồng, móc nối, dìm giá trong quá trình tham gia đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản;
(5) Theo quyết định của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp đấu giá tài sản nhà nước khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 33 của Luật đấu giá tài sản 2016.
Đồng thời, trường hợp hủy kết quả đấu giá tài sản theo quy định tại mục (2), (3), (4) và (5) thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Trích dẫn nội dung: Nguyên đơn ông Phạm Chí T khởi kiện yêu cầu hủy bỏ kết quả đấu giá ngày 26/4/2019 của Công ty đấu giá hợp danh M. Ông T khởi kiện yêu cầu hủy bỏ kết quả đấu giá vì ông cho rằng Chi cục Thi hành án huyện T đem tài sản của ông là phần diện tịch đất 13.390m2, có số thửa 332, tờ bản đồ số C3, tại ấp M, xã T2, huyện T, tỉnh Tiền Giang mà theo bản án phúc thẩm số 29/2016/HNGĐ-PT ngày 08/3/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đem ra bán đấu giá 6.626,4m2 mà ông trình bày ông đã thi hành thay cho bà C số tiền hơn 350.000.000 đồng, thì toàn bộ diện tích đất này là của ông mà Chi cục thi hành án huyện T đưa ra bán đấu giá là trái quy định pháp luật.
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
Trích dẫn nội dung: Bị đơn yêu cầu tuyên huỷ kết quả đấu giá quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa số 87 tờ bản đồ số 55 tọa lạc tại số 151/6, 151/12, 151/20, Khu phố 2, phường P, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh và xác lập lại quyền sở hữu tài sản cho Công ty Đ.
Bị đơn cho rằng nhà đất nêu trên là tài sản chung của các cổ đông Công ty Đ, trong đó mẹ của các ông bà là bà Nguyễn Thị Thu T là cổ đông sáng lập của Công ty nắm giữ 10% vốn điều lệ, việc đấu giá tài sản chung phải được sự đồng ý của các chủ sở hữu. Bị đơn còn cho rằng Công ty N đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục đấu giá cụ thể là Biên bản đấu giá tài sản ngày 12/10/2018 vi phạm về trình tự tiến hành và thành phần tham gia.
Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An
Trích dẫn nội dung: Ông Nguyễn Hữu Nh và bà Hồ Thị Th thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 567 tại xã QB, huyện Q, tỉnh Nghệ An cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam để vay 425 triệu đồng. Do không trả được nợ, Ngân hàng thu giữ tài sản và ủy quyền cho Công ty CP Đấu giá tài sản QT bán đấu giá. Bà Hồ Thị H trúng đấu giá và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Nguyễn Hữu Nh khởi kiện yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà H. Ông Nh cho rằng việc thu giữ tài sản, bán đấu giá và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng quy định pháp luật. Ông cũng cho rằng trên đất có tường rào trị giá 10 triệu đồng nhưng không được đưa vào giá trị đấu giá.
Ngân hàng, Công ty đấu giá và bà H không đồng ý với yêu cầu của ông Nh. Họ cho rằng việc thu giữ tài sản, bán đấu giá và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Về phần tường rào, họ cho rằng khi thế chấp không thể hiện có tài sản này, và chứng thư thẩm định giá cũng xác định tường rào không có giá trị.