Chào chị, về vấn đề của chị Ban biên tập xin có một số ý kiến sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai 2013 thì việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
- Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi đã vận động, thuyết phục.
- Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
- Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành.
- Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
+ Trích dẫn nội dung: “Năm 1997, gia đình ông Nguyễn Đức P có mua của ông Trần Đức C mảnh đất và ngôi nhà tooc xi lợp ngói tại TK1, thị trấn B, huyện Y, tỉnh Sơn La (giáp hồ B) để sinh sống và làm ăn cho đến nay (có giấy mua bán). Theo Uỷ ban nhân dân huyện Y, đây là thửa đất đang được Nhà nước quy hoạch hành lang giao thông Quốc lộ 37. Năm 2002, Ủy ban nhân dân huyện Y đã yêu cầu gia đình ông di dời để trả lại đất cho huyện và đã tính giá trị tài sản trên đất là 1.000.000 đồng. Ông P không đồng ý nhận tiền bồi thường và di rời vì cho rằng giá quá thấp. Sau đó huyện không có ý kiến nên ông P tiếp tục ở lại trên đất này. Năm 2012, Ủy ban nhân dân huyện Y tiếp tục yêu cầu ông P phải di dời để trả lại đất cho huyện Y nhưng ông P không đồng ý vì chưa được bồi thường thỏa đáng về đất và tài sản trên đất. Năm 2014, Ủy ban nhân dân huyện Y tiếp tục buộc gia đình ông P phải di dời trả đất cho huyện và hành lang giao thông, đồng thời giao cho Chi nhánh điện, nước huyện Y cắt điện, nước sinh hoạt của gia đình ông P. Ngày 06/4/2016, Chủ tịch UBND huyện Y ban hành Quyết định số 663/QĐ-UBND về việc cưỡng chế tháo dỡ công trình, thu hồi đất đối với hộ gia đình ông Nguyễn Đức P để xây dựng cải tạo hồ B và giải tỏa hành lang giao thông Quốc lộ 37.”
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
+ Trích dẫn nội dung: “ Ngày 29/12/2014, UBND quận N đã ban hành quyết định 4369/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị Ch. Cùng ngày đã ban hành Quyết định số 4387/QĐ-UB về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị Ch. Các quyết định trên đều được niêm yết công khai và lập biên bản giao cho bà Ch ngày 31/12/2014 nhưng bà không hợp tác, không nhận văn bản; việc luật sư cho rằng bà Ch không được nhận các quyết định trên là không có cơ sở. Ngày 05/01/2015, Hội đồng giải phóng mặt bằng quận tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình bà Ch. Do hộ gia đình bà Ch không nhận tiền và không tiến hành bàn giao đất nên ngày 20/4/2015, UBND phường Đ, Mặt trận Tổ quốc phường kết hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường đã tổ chức vận động, thuyết phục người có đất thực hiện nhưng hộ gia đình bà Ch không hợp tác, không mở cửa, không nhận thông báo về việc vận động. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản về việc cố tình không nhận tiền bồi thường, không bàn giao đất.”
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
+ Trích dẫn nội dung: “Đơn khởi kiện ngày 27/3/2018 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 08/5/2018 cũng như lời trình bày của ông Trần Văn T và bà Huỳnh Thị L tại cấp sơ thẩm và tại Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng: Chủ tịch UBND huyện V ra Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 693/QĐ-UBND ngày 22/3/2018 đối với diện tích đất 115,9m2, thửa đất số 68; tờ bản đồ số 01 là trái pháp luật; vì hạng mục Trạm dừng nghỉ P1 xã Đ (nơi có đất thu hồi của ông bà) là dự án tư nhân, không thuộc trường hợp nhà nước thu hồi đất và ông bà cũng chưa nhận được Quyết định thu hồi đất (đến khi nhận Quyết định cưỡng chế thu hồi đất số 693/QĐ-UBND ngày 22/3/2018 mới biết có Quyết định thu hồi đất số 562/QĐ-UBND ngày 27/6/2016 của UBND huyện V). Do đó, ông T, bà L khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 693/QĐ-UBND ngày 22/3/2018 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông T, bà L của Chủ tịch UBND huyện V.”
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.
+ Trích dẫn nội dung: “Ngày 25/5/2007, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L ban hành quyết định 432/QĐ – UBND thực hiện cưỡng chế hành chính giải phóng mặt bằng đối với hộ ông Nguyễn Chí Q – khi đó là chủ sử dụng 14.633m2 đất tại xóm M – xã T. Ông Đinh Quang H cho rằng: trong quá trình thực hiện quyết định số 432, UBND huyện L và Hội đồng giải phóng mặt bằng đã có sự nhầm lẫn, sai sót khi thực hiện việc cưỡng chế, thu hồi trái pháp luật toàn bộ diện tích 500m2 đất thuộc sở hữu của ông trong khi ông đang sử dụng hợp pháp. Vì vậy, ngày 15/6/2007, ông H đã có đơn gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L với nội dung: tố cáo hành vi cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật của Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện L và yêu cầu được bồi thường thiệt hại.”
+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
+ Trích dẫn nội dung: “Ngày 24/10/2014, Chủ tịch UBND thành phố Quảng Ngãi Ban hành Quyết định số 4163/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Trần Bá B để thực hiện dự án hạ tầng kỹ thuật khu dân cư trục đường Bầu Giang – Cầu Mới (đợt II phân khu I), ông Trần Bá B không đồng ý việc cưỡng chế vì chưa thống nhất số tiền bồi thường và giao đất tái định cư không hợp lý. Ngày 16/3/2015, ông Trần Bá B có đơn xin hoãn cưỡng chế gửi cho Chủ tịch UBND thành phố Quảng Ngãi qua đường bưu điện. Nhưng ngày 19/3/2015 vẫn tiến hành cưỡng mà không trả lời đơn, không thông báo cho gia đình ông biết trước, gây thiệt hại nghiêm trọng cho gia đình, làm cho gia đình ông hiện nay không có nhà để ở và gây thiệt hại về tài sản.”
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình.
+ Trích dẫn nội dung: “Ủy ban nhân dân huyện L đã hỗ trợ bồi thường, tái định cư cho các hộ dân tại xã T và thực hiện giải phóng mặt bằng. tháo dỡ công trình, chặt cây cối, thu hoạch hoa màu để bàn giao đất cho dự án. Trong quá trình thực hiện các bước về việc thu hồi đất, gia đình ông bà P – C không hợp tác tự nguyện. Ngày 19/4/2007, Ủy ban nhân dân xã T ban hành quyết định xử phạt hành chính đối với hộ ông Nguyễn Chí P. Ngày 25/5/2007, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L ban hành quyết định 432/QĐ – UBND thực hiện cưỡng chế hành chính giải phóng mặt bằng đối với hộ ông Nguyễn Chí P – khi đó là chủ sử dụng 14.633m2 đất tại xóm M – xã T. Không đồng ý với Quyết định 432, ông P và bà C đã có các đơn khiếu nại gửi Thanh tra tỉnh Hòa Bình: khiếu nại quyết định số 432/QĐ – UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L và hành vi cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật của Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện L , yêu cầu được bồi thường thiệt hại.”.