Theo Tài liệu Các đại hội và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2018) https://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/DanLuat-BanAn/2025/11/tai-lieu-tham-khao-1.pdf về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 1 của Đảng đề cập như sau:
...
Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm có 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết; đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã vạch ra đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế - những vấn đề hết sức quan trọng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Đại hội đã không xác định mục tiêu cụ thể của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và phạm sai lầm trong việc xác định bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về quan điểm quản lý kinh tế, v.v.. Vì thế, trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đất nước ta gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế - xã hội.
...
Như vậy, trong Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu rõ vấn đề như sau: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; là đại hội thống nhất Tổ quốc đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, Đại hội đã không xác định mục tiêu cụ thể của chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và phạm sai lầm trong việc xác định bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về quan điểm quản lý kinh tế,... Vì thế, trong quá trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đất nước ta gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế - xã hội.

Trong Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu rõ vấn đề gì? Quá trình thực hiện Nghị quyết của Đại hội nước ta gặp khó khăn nào? (hình từ internet)
Theo Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định như sau:
Điều 9.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Như vậy, Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình.
Theo Điều 5 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định như sau:
Điều 5.
1. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ tiếp tục giáo dục, rèn luyện và phân công đảng viên chính thức giúp đảng viên đó tiến bộ.
2. Khi hết thời kỳ dự bị, chi bộ xét công nhận đảng viên chính thức từng người một và biểu quyết như khi xét kết nạp; nếu không đủ tư cách đảng viên thì đề nghị lên cấp uỷ có thẩm quyền quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên dự bị.
...
Như vậy, theo Điều lệ Đảng, người được kết nạp vào Đảng phải trải qua thời kỳ dự bị mười hai tháng, tính từ ngày chi bộ tổ chức lễ kết nạp.