Dưới đây là tổng hợp 10 bản án về tranh chấp Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh
- Tóm tắt nội dung: Năm 1993, bà A được Công ty E nhận vào làm việc, theo hợp đồng lao động số 156/TCHC ngày 24 tháng 7 năm 1993, với công việc là kế toán chi nhánh. Nơi làm việc tại Mỏ đá T, huyện Đ, tỉnh K. Năm 2014, công ty E không trả lương cho bà. Tháng 5 năm 2015, bà làm đơn xin nghỉ việc nhưng công ty E không nhận đơn và không cho nghỉ việc, nên bà vẫn tiếp tục làm việc cho đến nay. Nay bà yêu cầu công ty E phải chấm dứt hợp đồng lao động với bà và: Chốt sổ Bảo hiểm xã hội và trả sổ Bảo hiểm xã hội; Trả tiền bảo hiểm xã hội; Tiền trợ cấp thôi việc; Tiền bảo hiểm thất nghiệp.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân thị xã M, tỉnh Bình Dương
- Tóm tắt nội dung: Ngày 17/4/2018, bà H xin thôi việc vì lý do cá nhân và được Công ty Y Vina chấp nhận. Tuy nhiên, từ khi bà H nghỉ việc đến nay, Công ty không chốt sổ bảo hiểm xã hội, không trả sổ bảo hiểm xã hội và giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho bà H. Khi bà H liên hệ với cơ quan Bảo hiểm xã hội thị xã M thì được biết Công ty Y Vina đang nợ quỹ Bảo hiểm xã hội nên cơ quan bảo hiểm xã hội không thể giải quyết chế độ cho bà H.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Toà án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
- Tóm tắt nội dung: Ông Huỳnh Tấn Đ bắt đầu ký hợp đồng lao động và làm việc tại Công ty Cổ phần Bao bì V từ ngày 01-9-2012. Trong quá trình làm việc từ tháng 12 năm 2013, Công ty cổ phần V không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho ông Đ, mặc dù hàng tháng Công ty vẫn trừ 10,5% tiền lương.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân thị xã Phú, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
- Tóm tắt nội dung: Ông Trần Trung D làm việc tại Công ty cổ phần thép Q vào năm 2013, bắt đầu ký kết hợp đồng lao động vào ngày 17/6/2013. Tháng 3/2016 ông chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Q, tuy nhiên Công ty Q chưa đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông mặc dù hàng tháng Công ty Q đều trích từ tiền lương của ông để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp với mức trích cụ thể là 8% bảo hiểm xã hội, 1,5% bảo hiểm y tế và 1% bảo hiểm thất nghiệp.
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
- Tóm tắt nội dung: Bà Trần Thị Thanh V được Công ty cổ phần H nhận vào làm việc từ tháng 4 năm 1991, Công ty không ký hợp đồng lao động. Đến tháng 02 năm 2000, Công ty cổ phần H ký hợp đồng lao động xác định thời hạn là 24 tháng nhưng Công ty không giao cho bà V hợp đồng. Tháng 02 năm 2004, Công ty ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn; tháng 01 năm 2016, Công ty ký tiếp hợp đồng lao động không xác định thời hạn; …
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: Ngày 05/01/2015 bà vào làm việc tại công ty cổ phần chuyển phát nhanh V . Đến tháng 9/2016 bà được bổ nhiệm vị trí phó phòng nhập liệu. Đến ngày 09/5/2017 bà nghỉ việc; sau khi nghỉ việc 02 tháng bà đến phòng nhân sự hỏi sổ bảo hiểm nhưng công ty chưa đóng tiền, không chốt được sổ. Ngày 15/9/2017 sau khi trễ 01 tháng thời gian đăng ký bảo hiểm thất nghiệp bà đã đến công ty và có văn bản gửi phòng nhân sự nhưng không nhận được phản hồi.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh
- Tóm tắt nội dung: Tháng 6/2012, ông ký hợp đồng lao động làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ thực phẩm M Đ. Hợp đồng lao động thời hạn 12 tháng, hàng năm công ty đều có phụ lục gia hạn hợp đồng, sau đó công nhận hợp đồng không thời hạn. Tại thời điểm nghỉ việc tháng 7/2018 mức lương là 3.693.667 đồng. Sau khi nghỉ việc ông đến Bảo hiểm xã hội huyện Trảng Bàng yêu cầu chốt sổ bảo hiểm để làm hồ sơ hưởng Bảo hiểm thất nghiệp, nhưng cán bộ Bảo hiểm xã hội nói do Công ty M Đ còn nợ tiền bảo hiểm…
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định
- Tóm tắt nội dung: Vào ngày 28/10/2015 theo phân công lịch trực Ông A trực ca chiều từ 15h00 đến 23h00, địa điểm Trung tâm thương mại Chợ Lớn Q, vào khoảng 22h15’ phút cùng ngày anh G (Phó ban ANBV TTTM Chợ Lớn Q) điện báo anh tăng ca thay cho anh H. Trên đường về đến ngã tư đèn xanh đường K và đường L vào khoảng 23h15’ phút do trời mưa to nên anh tự ngã, sau đó được dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Thành phố Q nhập viện lúc 23h59’ phút cùng ngày…
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
- Tóm tắt nội dung: Bà Nguyễn Ngọc V đã làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và không xác định thời hạn tại Công ty TNHH B từ ngày 01 tháng 10 năm 2014. Trong thời gian làm việc tại đây, bà Nguyễn Ngọc V đã nhận lương và các chế độ đến hết tháng 01 năm 2018. Tuy nhiên, đến tháng 02 năm 2018 thì Công ty TNHH B ngưng hoạt động, nhưng chưa giải quyết các chế độ cho bà Nguyễn Ngọc V theo quy định của pháp luật.
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan ban hành: Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng
- Tóm tắt nội dung: Từ tháng 11/1992 đến tháng 10/1999, bà A vào làm công việc nhân viên buồng tại Khách sạn G, thuộc Công ty Z. Từ tháng 11/1999 đến tháng 9/2003, bà A làm công việc nhân viên buồng tại Công ty Cổ phần khách sạn du lịch G. Từ tháng 10/2003 đến tháng 3/2004, bà A làm nhân viên tại Công ty Thương mại G- Hải Phòng. Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2012, bà A làm nhân viên buồng tại Khách sạn H - Công ty Cổ phần Thương mại và Du lịch H. Ngày 10/01/2014 Công ty H ra Quyết định số 11/QĐ-TCHC, về việc xếp bậc lương 3/6, mức lương 2.961.000 đồng đối với bà A. Tháng 4 và tháng 5 năm 2014, Công ty H chỉ tạm ứng cho bà A 80% lương thực lĩnh; tháng 6/2014 Công ty chỉ tạm ứng cho bà A 70% lương thực lĩnh; tháng 7/2014 Công ty chỉ trả bà A 1/2 tháng lương.