14/02/2025 15:57

Tổng hợp bản án về hợp đồng chuyển nhượng đất để tẩu tán tài sản bị tuyên vô hiệu

Tổng hợp bản án về hợp đồng chuyển nhượng đất để tẩu tán tài sản bị tuyên vô hiệu

Trường hợp cá nhân, hộ gia đình chuyển nhượng đất để tẩu tán tài sản thì có thể yêu cầu hủy văn bản công chứng mua bán đất đó không? Bài viết này thông tin về quy định và bản án liên quan đến tình huống trên.

Hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu khi nào?

Theo Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

Điều 122. Giao dịch dân sự vô hiệu

Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Như vậy, hợp đồng mua bán đất không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.

Các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự 2015 gồm: 

- Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

+ Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

+ Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

+ Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Như vậy, hợp đồng mua bán đất không có một trong các điều kiện trên là cơ sở để Tòa án tuyên hợp đồng này vô hiệu theo quy định pháp luật.

Ai có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất đã công chứng vô hiệu?

Người có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu theo Điều 52 Luật công chứng 2014 là: Công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.

Như vậy, các chủ thể trên có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật.

Tổng hợp bản án về hợp đồng chuyển nhượng đất để tẩu tán tài sản bị tuyên vô hiệu

Dưới đây là một số bản án về hủy giấy chứng nhận do chuyển nhượng đất để tẩu tán tài sản:

Bản án 190/2018/DS-PT ngày 15/10/2018 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Cà Mau

- Trích dẫn nội dung: "Xét giữa nguyên đơn và bị đơn thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập sau thời gian có Quyết định cưỡng chế kê biên của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C là trái với quy định của pháp luật, trái với Điều 6 của hợp đồng (phần cam đoan của các bên) đã được công chứng. Phần đất này đã bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện C ra quyết định cưỡng chế kê biên nhưng các bên vẫn thực hiện việc chuyển nhượng là giao dịch dân sự giả tạo nhằm tránh thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/3/2017 đã được Văn phòng Công chứng Huỳnh Thắng L công chứng số 002281, quyển số 01-TP/CC-SCC/HĐGD giữa ông Tô Văn S (bên chuyển nhượng) với ông Nguyễn Minh T cùng vợ là bà Dương Thị C (bên nhận chuyển nhượng) vô hiệu là có căn cứ."

Bản án về tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 137/2017/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Tây Ninh

- Trích dẫn nội dung: "Xét yêu cầu khởi kiện của bà L, yêu cầu kháng cáo của anh V thấy rằng: Diện tích 1.095,7m2 thuộc quyền sử dụng của bà Th, ông Tr theo giấy được cấp ngày 15/5/2005 đến ngày 24/5/2013 bà Th, ông Tr làm giấy cho anh V diện tích đất nêu trên, ngày 29/5/2013 anh V đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhưng trước đó năm 2012 bà Th, ông Tr nợ bà L 100 chỉ vàng 24k và 293.348.500 đồng không trả, bà L phải khởi kiện, Tòa án buộc bà L phải trả nhưng không còn tài sản để thi hành. Bà L khởi kiện tháng 12/2012, đến tháng 01/2013 cấp sơ thẩm xử bà Th, ông Tr có nợ, án có kháng cáo. Trong khi chờ kết quả xử phúc thẩm thì bà Th, ông Tr đã làm thủ tục cho con trai là anh V phần đất ông bà đang ở. Chỉ 5 ngày sau khi tặng cho, anh V đã đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tháng 7/2013 cấp phúc thẩm xử buộc vợ chồng bà Th, ông Tr có trách nhiệm trả nợ cho bà L 100 chỉ vàng 24k và 293.348.500 đồng, bản án có hiệu lực thi hành thì bà Th, ông Tr không còn tài sản để thi hành án cho bà L. Nên việc vợ chồng bà Th, ông Tr cho con trai 1.095,7m2 đất là nhằm mục đích trốn tránh trách nhiệm trả nợ."

Bản án về yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu số 40/2024/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Gia Lai

- Trích dẫn nội dung: "Ngày 23-7-2018, bà Ph khởi kiện yêu cầu ông Th phải trả số tiền 1.533.172.416 đồng. Ngày 25-7-2018, ông Th lập hợp đồng chuyển nhượng cho bà Đ các thửa đất số: 279, 316, 325 thuộc các tờ bản đồ số: 04 và 07, diện tích 1.491m2 theo GCNQSDĐ số W1179025 ngày 29-6-2001. Ngày 26-7-2018, Tòa án nhân dân huyện Đ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa toàn bộ tài sản của ông Th là các thửa đất nêu trên. Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 23-01-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ tuyên buộc ông Th phải trả nợ cho bà Ph; bản án có hiệu lực pháp luật, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ra quyết định thi hành án, cưỡng chế kê biên tài sản là các thửa đất trên để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Th và thông báo cho bà Ph thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu."

Bản án về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu số 31/2024/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Khánh Hoà

- Trích dẫn nội dung: “Ngày 06/8/2019, Tòa án nhân dân thành phố N xét xử vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa ông và vợ chồng ông Nguyễn Văn C1, bà Trần Thị H. Để đảm bảo cho việc thi hành án, ông đã có đơn ngăn chặn việc chuyển nhượng tài sản của ông C1, bà H tại Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N. Tuy nhiên, ngày 26/9/2018, ông Nguyễn Văn C1, bà Nguyễn Thị H vẫn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số công chứng 2469/2018 cho ông Vương Đức H1 và bà Trần Thị Như T đối với nhà đất thuộc thửa số 194, tờ bản đồ số 56, Lô 2 Tôn Đức Thắng, KB Tây chợ Hòn Rớ 1, xã Phước Đồng, thành phố N, tỉnh K. Mặc dù ông đã có đơn ngăn chặn nhưng ông C1, bà H vẫn cố tình ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Vương Đức H1 và bà Trần Thị Như T để tẩu tán tài sản nên hành vi trên là trái pháp luật.”

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 109/2024/DS-PT

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Tiền Giang

- Trích dẫn nội dung: "Do đó, có đủ cơ sở xác định, thời điểm ông L vay tiền của anh T có trước thời điểm ông L, bà L2 chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà cho bà L1. Trong thời gian ông L đang nợ tiền của anh T, tài sản duy nhất của ông L là phần đất thuộc thửa đất số 699, tờ bản đồ số 16, diện tích 221,5m2, ông L lại chuyển nhượng cho người khác, số tiền nhận được từ việc chuyển nhượng đất và nhà ông L không dùng để thực thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho anh T cho thấy việc ông L chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà cho bà L1 là nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho người thứ ba theo quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự. Ông L cho rằng có mượn tiền của người khác để trả nợ cho anh T xong nhưng ông L không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc đã thực xong nghĩa vụ trả nợ anh T nên trình bày trên của ông L là không có căn cứ. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T, tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông L5, bà L2 với bà L1 vô hiệu, đồng thời giải quyết hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu là phù hợp."

Xem thêm: Tổ chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản việc quyết định cưỡng chế thu tài sản của đối tượng quy định thế nào?

Nguyễn Mai Xuân Hà
24

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]