12/09/2020 08:12

04 bản án về khởi kiện đòi bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

04 bản án về khởi kiện đòi bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Bồi thường khi thu hồi đất là vấn đề đang khá nhức nhối hiện nay, khi thông thường người dân yêu cầu bồi thường giá cao nhưng chính quyền lại bồi thường giá thấp hoặc người dân cho rằng mình được bồi thường nhưng chính quyền không chấp nhận và rất nhiều vấn đề liên quan khác.

Nhà nước thu hồi đất khi nào?

Theo khoản 1 Điều 16 Luật Đất đai 2013 quy định Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau:

- Thu hồi vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

- Thu hồi do vi phạm pháp luật về đất đai.

- Thu hồi do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.

Điều kiện để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai 2013 thì hộ gia đình, cá nhân cần đáp ứng đủ điều kiện sau để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:

- Đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm.

- Có Giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định:

“2. Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này”.

Như vậy, hộ gia đình, cá nhân vẫn được bồi thường về đất khi không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nếu đáp ứng đủ 02 điều kiện sau:

- Là đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004.

- Người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.

Dưới đây là tổng hợp một số bản án người dân khởi kiện về bồi thường khi thu hồi đất được Tòa án chấp nhận yêu cầu, mời mọi người cùng tham khảo:

1. Bản án 756/2019/HC-PT ngày 22/10/2019 về khiếu kiện quyết định hỗ trợ tài sản khi thu hồi đất, buộc bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định pháp luật

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Trích dẫn nội dung vu án: Diện tích đất của ông Phạm H bị thu hồi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông Phạm H đã được giải quyết bồi thường giá trị quyền sử dụng diện tích đất bị thu hồi. Trên diện tích đất của hộ ông Phạm H bị thu hồi, ông Huỳnh Văn T đã thuê để xây dựng công trình, vật kiến trúc phục vụ sản xuất giống thủy sản từ năm 2001. Ngày 14/11/2018, UBND huyện N1 ban hành Thông báo số 234/TB-UBND về việc tự nguyện tháo dỡ, di dời tài sản trên đất và bàn giao mặt bằng của hộ ông Huỳnh Văn T. Tuy nhiên, trại tôm giống của ông Huỳnh Văn T được ông Bùi Duy Đ xây dựng từ năm 2001, trước thời điểm ngày 01/7/2004, khi đó chưa có quy hoạch mở rộng Trung tâm y tế huyện N1; thời điểm này UBND huyện N1 cũng chưa công bố kế hoạch sử dụng đất. Quyết định số 04/QĐ-UBND nêu trên chỉ hỗ trợ tài sản trên đất đối với hộ ông Huỳnh Văn T với mức hỗ trợ chi phí tháo dỡ, di dời 30% giá trị tài sản thiệt hại là áp dụng không đúng quy định pháp luật, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất.

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T. Buộc Ủy ban nhân dân huyện N1, tỉnh Ninh Thuận bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất cho hộ ông Huỳnh Văn T theo đúng quy định pháp luật.

2. Bản án 22/2017/HC-ST ngày 14/09/2017 về khiếu kiện quyết định hành chính đền bù thiệt hại, giải tỏa di dời khi Nhà nước thu hồi đất

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh An Giang.

+Trích dẫn nội dung: Tại thời điểm ông T nhận Quyết định năm 2007, Nghị định 197/2004/NĐ-CP có Hiệu lực, tại điểm a khoản 2 Điều 9 của Nghị định 197/2004/NĐ-CP quy định như sau: “Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”; Đối chiếu trường hợp của ông T thì năm 2007, giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang thay đổi theo hướng tăng giá bồi thường, cụ thể như trường hợp của ông Mai Văn Đ được bồi thường bổ sung. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện T phải giải quyết bồi thường cho ông T theo giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành năm 2007.

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T. Buộc Ủy ban nhân dân huyện T ban hành quyết định khác giải quyết bồi thường thiệt hại, giải tỏa di dời khi Nhà nước thu hồi đất cho ông Nguyễn Văn T.

3. Bản án 133/2019/HC-PT ngày 24/06/2019 về khởi kiện quyết định hành chính

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân cấp cao tại Hà Nội.

+ Trích dẫn nội dung vụ án: Gia đình ông Đào Văn Đ bị thu hồi 159,9m2 đất nhưng theo Quyết định số 3979/QĐ-UBND, ngày 18/7/2016 của UBND huyện C, tỉnh Hải Dương (sau đây viết tắt là Quyết định 3979) thì chỉ thu hồi 27,6m2; còn lại 132,3m2 tuy bị thu hồi để thực hiện dự án nhưng không có quyết định thu hồi vì UBND huyện cho rằng đó là đất hành lang an toàn giao thông nên khi thu hồi không cần có quyết định thu hồi. Đồng thời, căn cứ quyết định thu hồi, ngày 21/7/2016, UBND huyện C, tỉnh Hải Dương ban hành Quyết định số 4019 (sau đây gọi tắt là Quyết định 4019) phê duyệt mức bồi thường, hỗ trợ công san lấp hành lang an toàn giao thông cho gia đình ông Đ với số tiền 489.204.000 đồng. Theo phương án bồi thường (không số) ngày 07/01/2016 thì gia đình ông Đ chỉ được bồi thường về đất là 27,6 m2 bằng số tiền 469.200.000 đồng (đơn giá 17.000.000đ/m2); diện tích còn lại 132,3m2 là đất hành lang an toàn giao thông nên không được bồi thường, chỉ được hỗ trợ công san lấp bằng 20.004.000 đồng (151.200đ/m2). Không đồng ý với 02 Quyết định trên ông Đ, bà Ng làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết hủy Quyết định 3979 và Quyết định 4019; đồng thời yêu cầu UBND huyện C ban hành quyết định thu hồi toàn bộ diện tích của gia đình ông Đ bà Ng do ảnh hưởng bởi dự án và lập phương án bồi thường theo quy định.

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đào Văn Đ và bà Vũ Thị Ng về việc: Được bồi thường diện tích đất lối đi từ thửa đất của gia đình đến Quốc lộ 38. Buộc UBND huyện C, tỉnh Hải Dương phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

4. Bản án 757/2019/HC-PT ngày 22/10/2019 về khiếu kiện quyết định hỗ trợ tài sản khi thu hồi đất; buộc bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định pháp luật

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

+ Trích dẫn nội dung vụ án: Quá trình kinh doanh, hộ ông Đoàn Văn A xây dựng nhà, vật kiến trúc trên đất đã được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp để nuôi trồng thủy sản, đã đăng ký kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước đầy đủ. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 21 Quyết định số 64/2016/QĐ- UBND ngày 26/9/2016 của UBND tỉnh Ninh Thuận hộ ông Đoàn Văn A phải được hỗ trợ 80% mức bồi thường theo quy định.

+ Kết quả giải quyết: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Văn A. Buộc Ủy ban nhân dân huyện N1, tỉnh Ninh Thuận bồi thường, hỗ trợ tài sản trên đất cho hộ ông Đoàn Văn A theo đúng quy định pháp luật.

Nguyễn Sáng
7670

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn