14/04/2020 15:05

Tổng hợp bản án có nội dung ủy quyền chuyển nhượng QSD đất

Tổng hợp bản án có nội dung ủy quyền chuyển nhượng QSD đất

Hợp đồng ủy quyền liên quan đến đất đai là hợp đồng khá phổ biến hiện nay. Hợp đồng này xuất hiện do nhiều nguyên nhân khác nhau như để giảm thuế, để thủ tục nhanh chóng hay đơn giản là tin tưởng người thân nên ủy quyền cho người thân giao dịch…Sau đây là tổng hợp một số bản án có nội dung ủy quyền chuyển nhượng QSD đất và các phán quyết của tòa. Các bạn cùng tham khảo.

1. Bản án 345/2018/DS-PT ngày 30/11/2018 về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng ủy quyền và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

+ Trích dẫn nội dung:  “Ngày 21 tháng 3 năm 2011, bà Lê Thị Ch có ủy quyền cho ông Trần Tử H được quyền thay mặt và nhân danh bà Ch trông nom, xin chuyển mục đích, thế chấp, chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng thửa đất số 1653. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất, ông H được quyền thay mặt bà Ch và nhân danh bà thương lượng, nhận tiền đền bù, giải tỏa hoặc nền tái định của thửa đất 1653, tờ bản đồ số 04, loại đất trồng lúa, tọa lạc tại ấp 1, xã Long H, huyện C, tỉnh L. Ngày 19 tháng 9 năm 2013, ông Trần Tử H có ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà Trần Thị X thửa đất 1653 diện tích đất 5.597m2 nói trên, giá 200.000.000 đồng/1.000m2. Bà X đã giao đủ tiền cho ông H tại Văn phòng công chứng C. Ông H đã giao đất cho bà X, bà X làm thủ tục và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 03/10/2013. Do đất bà X nhận chuyển nhượng hợp pháp nhưng bà Ch chiếm giữ nên bà X khởi kiện yêu cầu buộc bà Ch phải trả lại diện tích đất 5.597m2, thuộc thửa đất 1653, loại đất trồng lúa, tọa lạc tại ấp 1, xã Long H, huyện C, tỉnh L. Buộc bà Ch tháo dỡ, di dời nhà tạm trên đất để trả lại nguyên hiện trạng đất cho bà X.”

2. Bản án 43/2019/DS-PT ngày 03/05/2019 về tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Trích dẫn nội dung: “Ngày 02-11-2017 ông A và ông B ký kết hợp đồng sang nhượng đất bằng giấy tay, hai bên đều thừa nhận, theo đó ông A chuyển nhượng cho ông B 690m2 đất tại Mỹ Xuân, Z với giá 250.000.000đ, ông B đã giao 70.000.000đ tiền đặt cọc (bút lục 08), để thực hiện hợp đồng sang nhượng trên hai bên đã làm hợp đồng ủy quyền ngày 30-11-2017 có chứng thực của Văn phòng Công chứng Chấn Phong với nội dung: “Bên A (ông A) ủy quyền cho bên B (ông B) được toàn quyền thay mặt và nhân danh bên A được quản lý, sử dụng, lập và ký kết hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng đặt cọc, hợp đồng cho thuê, hợp đồng tặng cho, hợp đồng thế chấp ……. đối với quyền sử dụng đất của bên A theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB do UBND huyện Z cấp cho ông A ngày 11-4-2005….; thời hạn ủy quyền 20 năm hoặc hợp đồng hết hiệu lực theo quy định của pháp luật….” (bút lục 15,16), do ông B chưa thanh toán hết số tiền 180.000.000đ nên ông A chưa giao bản chính giấy ủy quyền cho ông B và ông A gởi lại cho bà H giử giùm khi nào ông B thanh toán hết cho ông A thì bà H mới giao giấy ủy quyền cho ông B, do đó mục đích của giấy ủy quyền là nhằm đảm bảo cho việc thanh toán tiền để thực hiện cho việc chuyển nhượng đất giữa ông A và ông B; Vì vậy có đủ căn cứ xác định việc sang nhượng đất ngày 02- 11-2017 giữa ông A và ông B là thật, còn hợp đồng ủy quyền ngày 30-11-2017 giữa ông A và ông B là giao dịch một cách giả tạo nhằm che giấu việc sang nhượng đất”.

3. Bản án 47/2018/DS-PT ngày 08/06/2018 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Trích dẫn nội dung: “Xét “Hợp đồng ủy quyền” ngày 18-6-2010 và “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 27-6-2010 giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn T và ông Nghiêm Văn T, bà Nghiêm Nguyễn Thùy L theo yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người liên quan: Nhận thấy: Các hợp đồng đều được lập thành văn bản, có đầy đủ chữ ký của các bên tham gia, được công chứng, chứng thực theo quy định. Do đó, về hình thức và nội dung hợp đồng đúng quy định của Luật đất đai và Bộ luật Dân sự. Do giao dịch dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và ông T đã chấm dứt thực hiện kể từ ngày 15-04-2010, cho nên vợ chồng ông T ủy quyền cho ông T được toàn quyền định đoạt đối với thửa đất đã được cấp GCNQSD đất cho T, đất thuộc tờ bản đồ số 116, thửa 229 có diện tích 472,7mtọa lạc tại phường 12, Tp Vũng Tàu là không trái với quy định của pháp luật.”

4. Bản án 06/2017/DSST ngày 18/09/2017 về chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.

Trích dẫn nội dung: “Ngày 22/11/2013, anh Lê Xuân H đã ký hợp đồng ủy quyền số 1295/2013/HĐCN tại Văn phòng Công chứng Quốc Thái, ủy quyền cho bố là ông Lê Xuân T với nội dung “toàn quyền quản lý, sử dụng,…chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho mượn…” nhà đất tại số 54 Vạn Phúc Thượng, tổ 10B, cụm 4, phường Cống Vị, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Anh H cho rằng khi ký hợp đồng anh H không hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ, không xác định được hậu quả pháp lý xảy ra và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của anh đối với nhà đất trên. Hội đồng xét xử nhận thấy khi ký hợp đồng ủy quyền anh H có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và và năng lực hành vi dân sự, có toàn quyền tham gia và chịu trách nhiệm về các giao dịch dân sự theo quy định của pháp luật do vậy, việc anh và ông T ký kết hợp đồng ủy quyền là hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật.”

5. Bản án 249/2019/DS-PT ngày 01/11/2019 về tranh chấp tiền cọc và hợp đồng uỷ quyền

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Trích dẫn nội dung: “sau ngày 25/02/2018, ông Lê Thế S có ký ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Ch đi làm thủ tục xin trích lục thửa đất, giấy ủy quyền ngày 06/4/2018 không xác định thời gian hoàn thành công việc nhưng giữa ông Nguyễn Văn Th, ông Lê Thế S không có thỏa thuận nào khác xác định là chờ ông Nguyễn Văn Ch xin trích lục thửa đất xong thì tiếp tục hợp đồng, cũng không có thỏa thuận gia hạn thực hiện thỏa thuận đặt cọc nên có cơ sở xác định thời hạn thực hiện hợp đồng đặt cọc là đến ngày 25/02/2018”.

6. Bản án 77/2019/DS-PT ngày 22/03/2019 về tranh chấp hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.

Trích dẫn nội dung: “Quá trình giải quyết vụ án, sau khi có kết luận giám định của Viện khoa học hình sự Bộ Công an xác định chữ ký, chữ viết của người ủy quyền trong hợp đồng ủy quyền ngày 23/4/2012 không phải chữ ký, chữ viết của ông H5, bà H3, anh T2, anh H4 và chị H1 đã thừa nhận giả mạo chữ ký của những người chung hộ để làm hợp đồng ủy quyền này nhằm mục đích vay tiền của ông A nhưng ông A khẳng định ông không có cho chị H1 vay tiền mà giao dịch giữa ông và chị H1 là giao dịch chuyển nhượng nhà, đất. Chị H1 đã cấu kết cùng Văn phòng công chứng A1 công chứng hợp đồng ủy quyền ngày 23/4/2012 để lừa bán các thửa đất này cho ông A.”

7. Bản án 90/2018/DS-PT ngày 09/10/2018 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Trích dẫn nội dung: “Bà P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T Bà L theo ủy quyền của ông H1 bà N (Hợp đồng ủy quyền được Văn phòng công chứng B công chứng số 329 quyền số 06/2012/TP/CC-HĐGD ngày 11/7/2012), hợp đồng ủy quyền không có thù lao; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà P với ông H1 bà N được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, bà P đã nhận tiền chuyển nhượng đất. Theo quy định tại Điều 588 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì nếu ủy quyền không có thù lao thì bên ủy quyền có thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên được ủy quyền một thời gian hợp lý. Ngày 18/3/2013 ông H1, bà N đơn phương hủy hợp đồng ủy quyền do Văn phòng công chứng B công chứng số 329 quyền số 06/2012/TP/CC-HĐGD ngày 11/7/2012 với bà P, nhưng ông H1, bà N không thông báo cho bà P, ông T, Bà L biết việc hủy hợp đồng ủy quyền này. Do vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà P với ông T, Bà L là hợp pháp, không bị vô hiệu.”

8. Bản án 25/2018/DS-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thi xã Bình Long, tỉnh Bình Phước.

Trích dẫn nội dung: “Theo các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thửa đất số 364, tờ bản đồ số 27 là đối tượng của hợp đồng đặt cọc, thuộc quyền sử dụng của chị Nguyễn Thị Thúy P, có địa chỉ cư trú tại: Tổ 4, khu phố PC, phường TP, thị xã ĐX, tỉnh Bình Phước. Chị P được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Phước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 338463 ngày 28/7/2017. Chị D cho rằng mình đã được chị P ủy quyền thực hiện việc chuyển nhượng đất nên đã giao dịch chuyển nhượng và nhận tiền đặt cọc của anh Đ. Tuy nhiên theo Hợp đồng ủy quyền do chị D cung cấp thì chị P ủy quyền chuyển nhượng đất cho chị D vào ngày 21/5/2018, hợp đồng ủy quyền được công chứng tại Văn phòng Công chứng Lê Thị Thu Hà. Như vậy tại thời điểm chị D giao dịch chuyển nhượng đất và nhận tiền cọc của anh Đ (ngày 20/5/2018) thì chị chưa được ủy quyền nên không có quyền thực hiện giao dịch.”

Nguyễn Sáng

Nguyễn Sáng
3091

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn