- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
- Trích dẫn nội dung: “Trước đây bà M và ông Kim Đ có cầm cố cho ông Thạch M diện tích đất 4.970m2 (thực đo 5.211m2), thuộc thửa số 121, tọa lạc ấp T, xã S, huyện C với giá 175 giạ lúa, thời gian 05 năm sẽ chuộc lại và có thỏa thuận cứ sau 01 năm được chuộc 01 công đất (tương đương 35 giạ lúa). Vào năm 1997, ông Kim Đ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó ông Thạch M mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bà M với lý do đi đóng thuế cho nhà nước, sau đó ông Mặt thông báo với bà M là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị mất. Đến năm 2003, vợ chồng bà M, ông Kim Đ có nhu cầu chuộc lại đất thì ông Thạch M yêu cầu bà M chuộc lại với giá 19.880.000 đồng (4.000.000 đồng/1000m2 x 4.970m2), bà M không đồng ý nên phát sinh tranh chấp cho đến nay.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang
- Trích dẫn nội dung: “Bà Trần Thị C khởi kiện cho rằng việc bà cố đất của ông K, bà U các bên có lập giấy tay cố đất ngày 17/4/2007 và ngày 24/4/2007, có người chứng kiến và có xác nhận của chính quyền địa phương. Tuy nhiên bà C chỉ cung cấp được 01 Giấy tay cố đất ngày 24/4/2007 (bản gốc). Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án đã có Quyết định số 20/2018/QĐ-CCTLCC ngày 06/7/2018 yêu cầu bà Trần Thị C phải cung cấp cho Tòa án bản gốc Giấy cố đất ngày 17/4/2007 nhưng tại phiên tòa hôm nay bà C vẫn không cung cấp được nên Tòa án không xem xét nội dung Giấy cố đất lập ngày 17/4/2007 đứng tên ông Lưu Quốc P vì đây chỉ là bản phô tô, không có giá trị pháp lý.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ
- Trích dẫn nội dung: “Vào ngày 29/3/2013, anh Trần Thanh H và chị Mai Thị T đồng ý cố đất cho chị với số đất là 05 công tầm đo với số vàng 35 chỉ vàng 24kr, thời hạn cố đất là 02 năm, đất tọa lạc tại Ấp T, xã Đ, huyện C, thành phố Cần Thơ, khi cố đất vợ chồng anh H và chị T đã làm hợp đồng giấy tay để làm bằng chứng về việc cố đất, sau khi cố đất thì vợ chồng chị cho anh H và chị T mướn lại với giá 18.000.000 đồng/năm. Đến năm 2015, anh H và chị T không chuộc lại đất mà đem cố đất cho người khác. Do đó, chị Hg có đơn khởi kiện anh H và chị T yêu cầu trả lại số vàng mà chị đã cố đất là 35 chỉ vàng 24kr. Trong khi đó, số tiền anh H và chị T còn thiếu lại 8.000.000 đồng là tiền thuê đất năm 2018.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Sóc Trăng
- Trích dẫn nội dung: “Tại thời điểm cố đất những người tham gia giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; hợp đồng được xác lập trên cơ sở tự nguyện giữa các bên; đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 832533 ngày 30/12/2012 và số BE 095149 ngày 13/4/2011 cho ông Đặng Công P, bà Phạm Thị B. Tuy nhiên, pháp luật về đất đai không quy định người sử dụng đất cầm cố quyền sử dụng đất nên giao dịch cầm cố quyền sử dụng đất được xác lập giữa ông Bùi Thanh T và bà Phạm Thị B, ông Đặng Công P là không phù hợp pháp luật.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
-Trích dẫn nội dung: “Năm 1991 ông Nguyễn Thanh N3 có cố cho ông Sao 04 công đất ruộng với mỗi công cố là 28 giạ lúa, 04 công là 112 giạ lúa, đến khi nào có đủ số lúa 112 giạ thì chuộc lại đất. Cha bà viết một tờ giấy cố đất và ông S giữ giấy đó cho đến khi chuộc đất. Đến năm 1992 – 1993, ông bị bệnh gia đình hết sức khó khăn, các con phải chia nhau đi làm thuê, phần ruộng còn lại là 2/3 đất chừa mồ mả, nhưng ông thấy bỏ hoang nên để cho ông S và ông S đưa thêm cho ông là 15 giạ lúa, tổng cộng là 127 giạ lúa và ông S canh tác miếng đất này là 04 công 2 gốc 3 (trong giấy ghi rõ đất này là đất mồ mả của ông bà để lại không được sang đứt). Đến năm 2012, ông S kêu chuộc lại với giá 03 cây rưỡi vàng, các con ông N3 không đồng ý theo giá ông S đưa ra vì cho rằng cố lúa thì chuộc lúa 01 công là 28 giạ.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
- Trích dẫn nội dung: “Vào ngày 27/3/2014 âm lịch, do khó khăn nên vợ chồng ông V bà K thống nhất cố toàn bộ phần đất này cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q và bà Huỳnh Thị P với giá thỏa thuận là 35 chỉ vàng 24k, tuy nhiên, ông V chỉ nhận mới nhận từ bà P 10 chỉ vàng 24k, nhận vào ngày 27/3/2014. Khi có đủ vàng ông V về chuộc đất thì vợ chồng ông Q không đồng ý cho chuộc vì nói đã đưa cho ông tổng cộng là 45 chỉ vàng 24k. Do đó, ông V, bà K yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giấy cố đất lập ngày 27/3/2014, buộc vợ chồng ông Q, bà P trả lại cho ông bà phần đất qua đo đạc thực tế là 5.982,5m2, ông bà đồng ý trả lại cho vợ chồng ông Q, bà P 10 chỉ vàng 24k.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 04/11/2010, anh Đinh Văn E và anh Đinh Văn C có cầm cố cho ông quyền sử dụng 03 công tầm cắt (khoảng 3.900m2) đất trồng lúa, tọa lạc tại xã P, huyện H, tỉnh Đồng Tháp, với giá: 55 chỉ vàng 24kra 9999, thời hạn là 03 năm kể từ ngày 04 tháng 11 năm 2010 đến ngày 04 tháng 11 năm 2013 thì chuộc lại đất. Đến nay, đã quá thời hạn chuộc lại đất mà anh Đinh Văn E và anh Đinh Văn C chưa chuộc lại đất. Hiện nay, phần đất này bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện H ra Quyết định kê biên để thi hành án.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang
- Trích dẫn nội dung: “Vào ngày 26/3/2014 ông Võ Văn Đ và bà Đặng Thị T có cố của ông Ngô Văn L, bà Trần Thị Kim D 06 công tầm lớn đất ruộng với giá 172.000.000 đồng và 31 chỉ 05 phân vàng 9999, việc cố đất có làm giấy tay cùng ngày. Do nội dung thỏa thuận không cụ thể nên đến ngày 20/12/2015 ông Đ bà T và ông L bà D viết lại giấy cố đất. Thỏa thuận sau vụ Đông Xuân hàng năm nếu ông L, bà D có tiền sẽ cho chuộc lại đất. Phần đất cố là của ông D1 bà T1 cố cho ông L bà D và ông L bà D cố lại cho ông Đ bà T. Quá trình sử dụng đất ông Đ phát hiện ông L bà D chỉ giao 5,5 công không đúng với thỏa thuận là 06 công nên ông Đ bà T yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố đất ngày 20/12/2015 buộc ông L bà D trả lại 172.000.000 đồng và 31 chỉ 05 phân vàng 24k loại 9999.“