Dưới đây là tổng hợp những bản án về khiếu kiện, khiếu nại với cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thuế:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 11/3/2017, Doanh nghiệp tư nhân Đặng L (gọi tắt là DNTN Đặng L) nhận được kết luận thanh tra số 374/KL-CT ngày 10/3/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Cà Mau và Quyết định số 272/QĐ- CT ngày 10/3/2017 của Cục trưởng Cục thuế tỉnh Cà Mau về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế, theo kết luận thanh tra thuế và Quyết định xử lý vi phạm hành chính về thuế đã buộc DNTN Đặng L nộp tiền truy tiền thuế, phạt hành chính về thuế, tiền chậm nộp tiền thuế là 4.710.732.105 đồng.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Năm 2015, Công ty Cổ phần H gửi hồ sơ đề nghị hoàn trả khoản thu ngân sách nhà nước đến Cục Thuế tỉnh An Giang. Sau khi nhận hồ sơ đề nghị hoàn trả, ngày 03/9/2015 Cục Thuế tỉnh An Giang tiến hành kiểm tra trước hoàn thuế tại Công ty Cổ phần H. Ngày 21/9/2015, Cục trưởng Cục Thuế tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 2139/QĐ-CT về việc xử lý vi phạm hành chính về thuế qua kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế tại Công ty Cổ phần H trong đó: Công ty CP H không được hoàn thuế mà còn bị truy thu thuế GTGT là 461.501.095 đồng, phạt tiền khai sai là 92.300.219 đồng, tiền chậm nộp là 77.301.433 đồng (tổng số tiền phạt và truy thu thuế GTGT là 631.102.747 đồng); đồng thời Cục thuế có thông báo số 2143/TB-CT ngày 22/9/2015 về việc không được hoàn số thuế GTGT 1.250.405.258 đồng.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
- Trích dẫn nội dung: “Ông V giao dịch mua bán thẻ cào điện thoại với các cửa hàng điện thoại di động từ thời điểm năm 2011 – 2013 nên theo quy định tại khoản 2 Điều 110 Luật quản lý thuế năm 2006 thì: “Đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi chậm nộp tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu xử phạt là năm năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện”. Do đó, tính đến năm 2019 thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với ông V đã hết. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 65; khoản 2 Điều 66 Luật xử lý vi phạm Hành chính năm 2012; khoản 3 Điều 110 Luật quản lý thuế; khoản 3, khoản 4 Điều 2 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ thì ông V vẫn phải khắc phục hậu quả là nộp đủ số tiền thuế trốn vào Ngân sách Nhà nước theo quy định pháp luật.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
- Trích dẫn nội dung: “Cục thuế tỉnh H cho rằng Công ty G chỉ thực hiện dịch vụ và giao lại toàn bộ các công việc, hạng mục xây dựng cho 10 nhà thầu phụ để áp mức thuế TNDN 5% là không đúng. Vì thực tế, Công ty G vừa giao thầu xây dựng cho các nhà thầu phụ vừa trực tiếp thực hiện việc xây dựng thể hiện bằng việc Công ty đã thuê nhân công làm trực tiếp, đưa chuyên gia đến giám sát, thiết kế toàn bộ các công việc của nhà thầu phụ nên Công ty không thể giao lại toàn bộ các công việc cho nhà thầu phụ được.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
- Trích dẫn nội dung: “Cơ quan Kiểm toán nhà nước kiểm tra Công ty T đã phát hiện từ năm 2013 trở đi Công ty T hưởng thuế suất ưu đãi 15% là không đúng theo quy định tại Thông tư số 98/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính (Gọi là Thông tư số 98). Kể từ năm 2013 trở đi thì phải tính thuế suất phổ thông với Công ty T. Cơ quan Kiểm toán đề nghị Cục thuế tỉnh B xử lý vi phạm về thuế đối với Công ty T.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Trên cơ sở thanh tra, kiểm tra quyết toán thuế tại Hợp tác xã cho thời kỳ năm 1999, 2000, 2001, 2002 Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện H ban hành Quyết định số 107 truy thu và phạt tổng cộng 1.370.866.077 đồng đối với Hợp tác xã. Ngày 30/01/2004, Hợp tác xã có Văn bản số 17/HTX gửi Chi cục trưởng Chi cục thuế huyện H đề nghị xem xét Quyết định số 107. Ngày 22/3/2004, Chi cục thuế huyện H có Quyết định số 374, theo đó không công nhận nội dung cứu xét đối với Hợp tác xã và đề nghị Hợp tác xã chấp hành Quyết định số 107 và Hợp tác xã không khiếu nại gì theo quy định của pháp luật.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
- Trích dẫn nội dung: “Công ty T thành lập vào năm 2002, đến năm 2005 Công ty bắt đầu phát sinh thu nhập chịu thuế về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, năm 2006 phát sinh thu nhập chịu thuế từ hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đầu 2007, Công ty kê khai thuế với Cục thuế tỉnh Quảng Ngãi, đồng thời ngày 28/3/2007 Công ty có Tờ trình số 01 gửi Cục thuế tỉnh xin miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm (2006, 2007) và giảm 50% cho hai năm (2008, 2009)…. Ngày 05/8/2008 và 03/9/2008, Thanh tra tỉnh tiến hành thanh tra hoạt động báo cáo thuế của Công ty và kết luận Công ty có những sai phạm về thuế, cụ thể kết luận việc Công ty tự miễn thuế trong năm 2006, 2007 là sai nên đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý sai phạm.”
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
- Trích dẫn nội dung: “các khoản ưu đãi công ty được hưởng đối với dự án trên bao gồm: Được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là 15%; được miễn 04 năm, giảm 50% số thuế phải nộp cho 07 năm tiếp theo cho phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mang lại; Được kéo dài thời gian miễn thuế TNDN thêm hai năm và giảm 50% thêm 02 năm; doanh nghiệp không phải nộp thuế thu nhập bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; … Năm 2003, dự án của công ty hoàn thành và đưa vào hoạt động. Hàng năm công ty đã thực hiện việc kê khai và quyết toán thuế cơ bản đúng quy định của pháp luật.”