06/04/2021 14:43

Tổng hợp 07 bản án về hợp đồng thuê nhà, đất bằng giấy viết tay

Tổng hợp 07 bản án về hợp đồng thuê nhà, đất bằng giấy viết tay

Hợp đồng thuê nhà đất không bắt buộc phải công chứng mà chỉ thực hiện khi hai bên trong hợp đồng cùng thỏa thuận, thống nhất và có yêu cầu về việc công chứng hợp đồng. Hợp đồng thuê nhà đất bằng giấy viết tay vẫn có hiệu lực, tuy nhiên đối với những hợp đồng có giá trị lớn nên công chứng hoặc chứng thực để tránh những rủi ro có thể xảy ra.

Dưới đây là tổng hợp 07 bản án với nội dụng nêu trên:

1. Bản án 174/2018/DS-PT ngày 01/06/2018 về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre

- Tóm tắt nội dung: Ngày 06/7/2015 vợ chồng bà M, ông L cho ông P thuê một căn nhà mái lợp tol, vách lá, rộng 05m, dài 7. Hai bên lập hợp đồng cho thuê nhà bằng giấy viết tay, mục đích thuê nhà để ở, thời hạn thuê là 04 năm. Do ông P vi phạm nghĩa vụ trả tiền thuê nhà và sử dụng nhà cho thuê không đúng mục đích nên nay bà M yêu cầu hủy hợp đồng cho thuê nhà. Xét thấy, hình thức hợp đồng thuê nhà không đúng với quy định pháp luật và nội dung hợp đồng không ghi đầy đủ năm sinh, địa chỉ của bên cho thuê và bên thuê, địa chỉ căn nhà cho thuê, mục đích nhà cho thuê…nên Tòa sơ thẩm đã tuyên hủy hợp đồng cho thuê nhà nêu trên.

2. Bản án 1205/DS-ST ngày 16/07/2019 về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

- Tóm tắt nội dung: Năm 2012, bà H và vợ chồng ông PQQ có ký hợp đồng cho thuê căn nhà 223 Nguyễn Xí để sản xuất kinh doanh. Theo hợp đồng viết tay được ký kết giữa hai bên vào ngày 29/4/2012 thì vợ chồng ông Q bà M đồng ý cho bà Hà thuê toàn bộ căn nhà nói trên là 504m2, thời hạn thuê là 10 năm. Sau khi ký hợp đồng, bà H đã đặt cọc thế chân cho vợ chồng bà M là 3 (ba) lượng vàng SJC. Theo hợp đồng này, bà Hà có quyền sửa chữa hoặc xây dựng thêm phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. Do không thể thương lượng giải quyết được việc trả tiền thuê hàng tháng nên bà H đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh đòi lại số tiền cọc mà bị đơn đã nhận của nguyên đơn.

3. Bản án 02/2020/DS-ST ngày 20/01/2020 về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông

- Tóm tắt nội dung: Ngày 04/01/2018, bà H cho bà T thuê lại căn nhà cấp 4 trên để ở, việc thuê nhà có lập hợp đồng viết tay với nhau và hai bên cùng ký vào nhưng không có chứng thực hay công chứng tại cơ quan có thẩm quyền. Thời hạn cho thuê là 12 tháng kể từ ngày 04/01/2018. Hết thời hạn thuê bà H đã yêu cầu nhiều lần nhưng bà T không chịu trả nhà cho bà. Bà T đã vi phạm thỏa thuận khi thuê nhà ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà H. Nay bà H khởi kiện yêu cầu bà T trả lại căn nhà xây cấp bốn có diện tích, kết cấu như trong kết quả thẩm định của Tòa án.

4. Bản án 75/2018/DS-PT ngày 08/05/2018 về tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở và thuê quyền sử dụng đất

- Cấp xét xử: Phúc thẩm

- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

- Tóm tắt nội dung: Vào khoảng cuối tháng 8 năm 2014, bà V có hỏi thuê căn nhà nhưng ông N không đồng ý cho thuê. Ngày 26/9/2014 vợ ông N là bà L đã tự ý ký cho vợ chồng bà V, ông S thuê căn nhà gỗ diện tích 30m2. Hợp đồng được các bên viết tay không chứng thực hay công chứng. Việc bà L cho vợ chồng bà V, ông S thuê căn nhà trên ông N hoàn toàn không biết, khi bà V, ông S đến ở thì ông N tưởng bà V, ông S đến ở nhờ nên không có ý kiến gì. Năm 2015, ông N làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc giải quyết tuyên hợp đồng thuê nhà trên vô hiệu.

5. Bản án 01/2019/DS-ST ngày 24/01/2019 về tranh chấp hợp đồng thuê nhà

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng

- Tóm tắt nội dung: Năm 2017, vợ chồng ông Th, bà A cùng với bà Tr có ký hợp đồng thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Hợp đồng công chứng 2938 TP/CC-SCC/HĐGD cùng với Phụ lục hợp đồng thuê nhà và Giấy bàn giao viết tay với nội dung. Trong thời gian thuê nhà bà Tr đã không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết về việc thanh toán tiền thuê nhà. Nay ông Th, bà  A yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Tr phải trả cho ông Th, bà A số tiền là 92.000.000 đồng; không xem xét, giải quyết phần vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu. 

6. Bản án 21/2018/DS-ST ngày 29/08/2018 về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất và hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang

- Tóm tắt nội dung: Ngày 03/6/2002, sau khi cố đất cho ông H, ông H thuê lại phần đất này để tiếp tục canh tác đất thể hiện tại Giấy cho mướn đất ruộng lập ngày 03/6/2002, trong đó nội dung thể hiện “ông Phạm Văn H đồng ý cho Nguyễn Văn H mướn đất, thời hạn 3 năm, giá 1,7 tấn chuyển về đến nhà, ngày 03/6/2002. Mặc dù hợp đồng được lập thành văn bản nhưng chỉ là giấy viết tay, không lập theo mẫu quy định và không được công chứng chứng thực hợp pháp, không thực hiện đăng ký cho thuê tại cơ quan có thẩm quyền. Tòa án nhận định, xét về hình thức và nội dung hợp thì đồng thuê quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn H và ông Nguyễn Văn H là vô hiệu. Nên việc nguyên đơn ông H yêu cầu hủy hợp đồng thuê quyền sử dụng này là có cơ sở chấp nhận..

7. Bản án 60/2019/DS-ST ngày 11/12/2019 về tranh chấp hợp đồng cố đất và thuê đất

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long

- Tóm tắt nội dung: Vào ngày 2/10/2009 bà P và ông M có cố 2 công đất cho bà L và con gái là chị TL. Bên cạnh đó 2 bên thỏa thuận mướn lại 2 công đất trên với giá 44 giạ lúa thời hạn mướn là 1 năm. Việc cố đất và mướn đất 2 bên có lập hợp đồng bằng giấy viết tay. Đến thời hạn chuộc 2/10/2011, bà L và chị L có yêu cầu bà P và ông M trả vàng cố đất nhưng ông M và bà P không có vàng để trả nên bà L khởi kiện.

Như Ý
2695

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]