Dưới đây là tổng hợp 06 bản án về tranh chấp hợp đồng đại lý, mời các bạn thạm khảo:
1. Bản án 148/2020/DS-PT ngày 12/03/2020 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 29/9/2012, ông Lê Hải C đại diện công ty V ký hợp đồng đại lý phân phối hàng hoá với bà H. Ngay sau đó công ty V giao cho bà H lô hàng rượu T (MPT) trị giá 348.000.000 đồng để bán thử nhưng suốt thời gian 02 tháng không bán được hàng, do đó bà H trả lại hàng cho công ty V và Công ty V cũng trả lại tiền cho bà H. Trong lúc Công ty V và bà H chưa huỷ bỏ hợp đồng đại lý thì ngày 29/01/2013 có ông Nguyễn Phước T2 đến nhà bà H giới thiệu là Tổng Giám đốc Công ty T đặt vấn đề ký hợp đồng mua 200 chai rượu MPT.”
2. Bản án 05/2019/KDTM-PT ngày 30/10/2019 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
- Trích dẫn nội dung: “Ông Bùi Văn Lương là người đại diện theo ủy quyền của Công ty H Btrình bày: Ngày 31/12/2015, Công ty HB, ký hợp đồng đại lý để tiêu thụ xi măng với Công ty QS, hiệu lực của hợp đồng kể từ ngày ký đến hết ngày 31/12/2016, sau đó gia hạn đến hết ngày 31/12/2017. Hợp đồng thể hiện: Bên A (Công ty QS) đồng ý cho bên đại lý là Công ty H B(Bên B) thanh toán trả chậm bằng bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng. Bên B được lấy hàng trả chậm và phải thanh toán tiền của tháng trước trong 5 ngày đầu tháng tiếp theo. Quá thời hạn này bên B phải chịu lãi suất vay ngắn hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển VN.”
3. Bản án 02/2020/KDTM-PT ngày 20/02/2020 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố B, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
- Trích dẫn nội dung: “Công ty C đã nhận hàng của Công ty B theo các phiếu giao vận hàng ngày 06/9/2017 và ngày 16/9/2017 với 28 cuộn tôn, trị giá 2.990.981.708 đồng. Công ty F không nhận trực tiếp toàn bộ hàng hóa mà việc nhận hàng thông qua các Công ty vận chuyển do Công ty F thuê để nhận tại kho của Công ty B. Công ty C không có văn bản thông báo cho Công ty B trước khi nhận hàng là chưa phù hợp với thỏa thuận tại hợp đồng đại lý và nguyên đơn cũng thừa nhận là có sai sót khi thực hiện thủ tục giao hàng. Tuy nhiên, việc Công ty C không nhận hàng trực tiếp tại kho của Công ty B không làm thay đổi bản chất của đại lý thương mại. Bởi lẽ, Công ty C là bên đại lý đã bán hết 28 cuộn tôn của Công ty B đã giao đại lý, do đó Công ty C phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của bên đại lý đối với bên giao đại lý theo quy định tại Điều 175 Luật thương mại.”
4. Bản án 05/2018/KDTM-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
- Trích dẫn nội dung: “Theo nội dung các hợp đồng đại lý đã ký, Công ty T có trách nhiệm cung cấp cho Công ty C làm đại lý bán lốp ô tô. Công ty C có trách nhiệm thanh toán cho Công ty T trong vòng hai tháng kể từ khi lốp ô tô được bán, mỗi bộ lốp ô tô bán được, Công ty C được hưởng 200.000 đồng tiền hoa hồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty T đã vận chuyển và bàn giao lốp ô tô cho Công ty C để Công ty C bán cho khách hàng. Song Công ty C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán.”
5. Bản án 679/2018/KDTM-ST ngày 27/06/2018 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận 3,Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 01/04/2013 Công ty P (Viet Nam) và Công ty R đã ký hợp đồng đại lý phân phối hàng hóa số 01/2015/HĐĐ, theo đó thì Công ty R là đại lý phân phối cho Công ty P (VietNam) trong việc tiêu thụ và bán máy điều hòa nhiệt độ các loạimang nhãn hiệu P do tập đoàn P sản xuất.”
6. Bản án 15/2019/KDTM-PT ngày 05/06/2019 về tranh chấp hợp đồng đại lý
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
- Trích dẫn nội dung: “Công ty B và Công ty C ký Hợp đồng đại lý số: HĐĐL201701-007PT với một số nội dung như sau: Công ty B đồng ý giao cho Công ty C làm đại lý kinh doanh các sản phẩm tôn do Công ty B sản xuất, đơn hàng đặt chủ yếu bằng fax hoặc email, địa điểm giao hàng là nhà máy của Công ty B, hạng mức xuất hàng là 3.000.000.000 đồng, thanh toán tiền mua hàng trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận hàng, cơ sở thanh toán tiền là căn cứ vào số lượng hàng thực tế thể hiện trên phiếu giao vận hàng và hóa đơn tài chính, lãi suất chậm thanh toán là 0,07%/ngày/tổng số tiền thanh toán chậm, đối chiếu công nợ vào mỗi tháng hoặc khi cần thiết, thời gian phản hồi đối chiếu công nợ là 05 ngày kể từ ngày nhận được bản đối chiếu công nợ, ngoài ra hợp đồng còn quy định về chế độ chiết khấu, giải quyết khiếu nại hàng hóa…”