Dưới đây, là tổng hợp 06 bản án về các tranh chấp hợp đồng góp vốn mua nhà, đất; mời các bạn tham khảo:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 03/7/2015, bà Nguyễn Thúy H ký với Công ty cổ phần S – N 08 Hợp đồng góp vốn mua căn hộ. Công ty cổ phần S – N cam kết sẽ có trách nhiệm ký hợp đồng mua bán căn hộ với bà H khi đủ điều kiện mua bán theo quy định của pháp luật nhưng không quá 10 tháng kể từ ngày ký hợp đồng góp vốn. Hợp đồng quy định nếu quá 10 tháng mà Công ty cổ phần S - N vẫn chưa đủ điều kiện ký kết hợp đồng mua bán căn hộ thì Công ty cổ phần S - N phải trả lại tài sản góp vốn đã nhận, đồng thời, bồi thường một khoản tiền tương đương với tài sản đã nhận cho bên góp vốn. Đến nay, đã quá thời hạn cam kết trong các hợp đồng góp vốn mua căn hộ nhưng Công ty cổ phần S - N vẫn không khởi công xây dựng công trình và thực hiện các cam kết đã thỏa thuận.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Ông B và ông C có ký kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn K hợp đồng số 04-KĐD ngày 16/4/2011 về việc ông B và ông C góp vốn mua Căn hộ Cao cấp Kim Đại D tại số 82 đường H. Theo hợp đồng, ông B và ông C góp vốn để được mua các tầng 4, 5 và 6 khu A, diện tích 527m2/tầng, tổng giá trị góp vốn là 11,067,000,000 đồng. Do phải thanh toán hết một lần bằng tiền mặt ngay sau khi ký kết hợp đồng nên bên Công ty đồng ý giảm số tiền là 367,000,000 đồng trên giá trị hợp đồng. Vì vậy, ông B và ông C đã góp cho Công ty số tiền là 10,700,000,000 đồng theo Phiếu thu tiền ngày 16/4/2011 của Công ty. Sau đó, ông Trịnh Hoàng B và ông Tô Minh C đã nhiều lần đốc thúc Công ty thực hiện dự án và bàn giao căn hộ như đã thỏa thuận nhưng đến nay dự án vẫn chưa được thực hiện.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 5-7-2000 vợ chồng ông Phan Đăng T, bà Nguyễn Thị Bích N và vợ chồng bà Nguyễn Thị Phương M, ông Trần Vinh S ký biên bản góp vốn mua 03 thửa đất để làm trang trại, tổng diện tích 12.454m2 tại xóm G, xã C, huyện L, tỉnh Hòa Bình.Thửa đất thứ nhất: Diện tích 9.810m2 giấy chứng nhận cấp ngày 20-6-2000 mang tên hộ bà Nguyễn Thị Phương M; thửa đất thứ hai: Diện tích 834m2, mua của ông D; thửa đất thứ ba: Diện tích 1800m2, mua của gia đình ông Nguyễn Văn T, bà Hoàng Thị M. Hai bên thỏa thuận: Cùng nhau góp vốn (mỗi bên 50%) và cùng chịu trách nhiệm đóng góp mọi chi phí quản lý sử dụng và hưởng mọi quyền lợi trên ba thửa đất đã mua, lợi nhuận và rủi ro hai bên đều phải chịu. Khi cần thiết hai bên đều có quyền chuyển giao quyền sở hữu trên phần đất của mình và có quyền thừa kế cho người thân cận theo tỷ lệ góp vốn, trước khi quyết định phải có sự bàn bạc giữa các bên.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- Trích dẫn nội dung: “Trong quá trình thực hiện hợp đồng, được biết ngày 16/6/2010 Công ty B đã chuyển nhượng dự án trên cho Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh V(sau đây gọi là Công ty V). Ngày 19/02/2016 Công ty V chuyển nhượng toàn bộ dự án trên cho Công ty Cổ phần Địa ốc và Đầu tư P (sau đây gọi là Công ty P) theo Quyết định số 648/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình Công ty P thi công dự án trên bà đã nhiều lần làm việc, yêu cầu Công ty P giải quyết quyền lợi cho bà về các hợp đồng góp vốn mua bán căn hộ tại dự án chung cư Phú L nhưng đến nay Công ty P không giải quyết mà vẫn rao bán các căn hộ.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
- Trích dẫn nội dung: “Ngày 15/11/2013 ông T1 và bà H1 có thoả thuận về việc mua chung một thửa đất ruộng 2 lúa của ông H2 ở thị trấn HS, huyện PB, cạnh quốc lộ 37 đối diện với Chi cục Thuế huyện PB, diện tích 137m2. Để thực hiện thỏa thuận này, ông T1, bà T1 đã chuyển cho bà H1 tổng cộng 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng). Sau khi nhận được tiền từ ông T1 bà Th, bà H1đã tiến hành mua thửa đất nói trên và hai bên đã nhờ anh T2 (con trai bà H1) đứng tên hộ là đúng với giấy thỏa thuận của hai bên. Sau khi anh T1 con bà H1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T1, bà Th có xảy ra tranh chấp với bà H1. Ông T1, bà Th yêu cầu bà H1 trả lại số tiền 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng) đã góp mua chung đất với bà H1 với lý do bà H1 gian dối về giá. Ông T1 cho rằng bà H1 chỉ mua thửa đất trên với giá 30.000.000đ đến 40.000.000đ nên không trả tiếp bà H1 số tiền còn thiếu theo thỏa thuận.”
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
- Trích dẫn nội dung: “Bà Trần Thị Thủy là chị gái bà, năm 2010, bà Thủy và chị em trong gia đình mua chung diện tích đất nền biệt thự của Tập đoàn Nam Cường. Do tin tưởng bà Thủy nên không hỏi giá mua đất mà chỉ thỏa thuận khi bán đi thì chia nhau lợi nhuận tương đương với số vốn góp. Sau khi thỏa thuận, bà có đưa bà Thủy số tiền 650.000.000đ và bà Thủy có viết giấy biên nhận tiền vào ngày 11/11/2012. Đến năm 2014, bà Thủy có gọi điện hỏi mọi người có đồng ý bán đất không nhưng không nói giá bán bao nhiêu, bà không biết ai là người đứng tên bán đất. Sau này mới biết anh Trần Minh Phương là người đứng tên ký hợp đồng mua đất, đồng thời là người đứng tên bán đất, nhận tiền.”