06/07/2019 15:39

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Hàng giả được sản xuất giống như hàng thật về mọi mặt khiến cho người tiêu dùng rất khó phân biệt. Hàng giả ngày càng xuất hiện tràn lan trên thị trường làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, trật tự xã hội, an ninh quốc phòng, các công ty kinh doanh hợp pháp, đặc biệt là ảnh hưởng đến lòng tin của người tiêu dùng.

Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta bắt đầu thực hiện chiến lược đổi mới và mở cửa nền kinh tế. đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. “Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”, “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau”(1). Với mục tiêu xây dựng và phát triển đó, Đảng và Nhà nước ta đã đạt những kết quả về tăng trưởng sản xuất, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và toàn xã hội bằng cách cung cấp một lượng hàng hóa nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại, nhãn hiệu, kiểu dáng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đó, chúng ta cũng phải đối đầu với những mặt trái của nền kinh tế này, trong đó có nạn sản xuất, buôn bán hàng giả. Hàng giả được sản xuất giống như hàng thật về mọi mặt khiến cho người tiêu dùng rất khó phân biệt. Hàng giả ngày càng xuất hiện tràn lan trên thị trường làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, trật tự xã hội, an ninh quốc phòng, các công ty kinh doanh hợp pháp, đặc biệt là ảnh hưởng đến lòng tin của người tiêu dùng.

1. Những vấn đề lý luận về tội sản xuất, buôn bán hàng giả

Điều 192 BLHS năm 2015 quy định khá chi tiết về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”, vì vậy tác giả không liệt kê lại nội dung của điều luật mà đi sâu phân tích các yếu tố cấu thành của tội này.

Thứ nhất, mặt khách thể của tội phạm.

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả xâm phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý thị trường, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng, quyền được bảo hộ về sở hữu trí tuệ, kinh doanh đúng đắn của các doanh nghiệp, các nhà sản xuất. Đối tượng của tội phạm này là “hàng giả” bao gồm: (1) Hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký; (2) Hàng hóa có hàm lượng định lượng chất chính hoặc tổng các chất dinh dưỡng hoặc đặc tính kỹ thuật cơ bản khác chỉ đạt mức từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng hoặc quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng hoặc ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; (3) Thuốc phòng bệnh, chữa bệnh cho người, vật nuôi không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng với hàm lượng đã đăng ký; không đủ loại dược chất đã đăng ký, có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; (4) Thuốc bảo vệ thực vật không có hóa chất; hàm lượng hóa chất chỉ đạt từ 70% trở xuống so với tiêu chuẩn chất lượng, quy chuẩn kỹ thuật đã đăng ký, công bố áp dụng; không đủ hoạt chất đã đăng ký, có hoạt chất khác với hoạt chất ghi trên nhãn, bao bì hàng hóa; (5) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa giả mạo tên thương nhân, địa chỉ của thương nhân khác; giả mạo tên thương mại hoặc tên thương phẩm hàng hóa, giả mạo mã số đăng ký lưu hành, mã vạch hoặc giả mạo bao bì hàng hóa của thương nhân khác; (6) Hàng hóa có nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa ghi chỉ dẫn giả mạo về nguồn gốc hàng hóa, nơi sản xuất, đóng gói, lắp ráp hàng hóa; (7) Hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ; (8) Tem, nhãn, bao bì giả.

Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện được thể hiện ở các hành vi sau: (1) Sản xuất hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa giả; (2) Buôn bán hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khầu và hoạt động khác đưa hàng hóa giả vào lưu thông. Trường hợp người buôn bán không biết hàng hóa mà mình đang kinh doanh là hàng giả thì không cấu thành tội phạm.

Tội sản xuất, buôn bán hàng giả giống với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở chỗ người phạm tội cùng sử dụng thủ đoạn gian dối và có mục đích vụ lợi, nhưng khác nhau ở chỗ: Đối với tội lừa đảo, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối (chào hàng bằng hàng thật, giấy tờ thật nhưng khi giao hàng thì là hàng giả, giấy tờ giả) hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác làm cho người mua tin tưởng và đồng ý mua hàng nhưng khi giao lại tráo hàng giả hoặc lừa dối khi trả tiền thiếu cho người bán so với giá đã thỏa thuận. Còn người sản xuất, buôn bán hàng giả và người mua hàng luôn có sự xem xét, trao đổi, mặc cả khi mua nhưng do bất cẩn mà mua phải hàng giả (do nhãn mác như hàng thật).

Thứ ba, chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đủ các điều kiện chịu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 5 Điều 175 BLDS năm 2015.

Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giá của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì vụ lợi nên vẫn thực hiện. Mục đích tội phạm là nhằm thu lợi bất chính và động cơ là vụ lợi

Thứ năm, về hình phạt

Điều 192 quy định 03 khung hình phạt sau:

Khung 1: quy định phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp quy định tại khoản 1.

Khung 2: quy định phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối với người phạm tội trong các trường hợp: (1) Có tổ chức; (2) Có tính chất chuyên nghiệp; (3) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; (4) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; (5) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (6) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; (7) Làm chết người là trường hợp nạn nhân chết là do sử dụng hàng giả. Để truy cứu trách nhiệm hình sự cần xác định mối quan hệ nhân quả giữa cái chết của nạn nhân và việc sử dụng hàng giả; (8) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên là trường hợp 01 nạn nhân bị thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên (căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần); (9) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% là trường hợp do sử dụng hàng giả mà 02 nạn nhân bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% đến dưới 121% (căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần); (10) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng là trường hợp do sử dụng hàng giả đã gây cho người khác thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng; (11) Buôn bán qua biên giới; (12) Tái phạm nguy hiểm.

Khung 3: quy định phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp: (1) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên; (2) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên; (3) Làm chết 02 người trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên; Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội: (1) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng, nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1; (2) Phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng, nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, đ, e, g, h, I, k, l và m khoản 2; (3) Phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm, nếu phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3; (4) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79.

Ngoài hình phạt chính, pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

2. Thực trạng, nguyên nhân của tội sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta

Trong những năm qua, số lượng tội phạm về sản xuất, buôn bán hàng giả ngày một gia tăng. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ những năm đầu của thế kỷ 21, mỗi năm ngành Tòa án vài trăm ngàn vụ với vài trăm ngàn bị cáo bị đưa ra xét xử. Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả ngày một gia tăng mạnh với thủ đoạn ngày càng tinh vi. Từ những vụ sản xuất, buôn bán hàng giả có giá trị chỉ vài chục triệu đồng trước đây, nay đã lên tới hàng trăm, hàng chục tỷ đồng. Điển hình như vụ sản xuất, buôn bán mực in Ricoh giả tại thành phố Hồ Chí Minh, Chi cục Quản lý thị trường thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện và thu giữ 389 ống mực hiệu Ricoh, 142 ống mực hiệu Toshiba; hay vụ án sản xuất, mua bán 321.000 chiếc điện kế điện tử giả tại Công ty Điện lực thành phố Hồ Chí Minh…Qua các vụ án này cho thấy, việc sản xuất, buôn bán hàng giả được các tội phạm thực hiện khá bài bản, theo một quy trình và rất tinh vi. Nhưng hầu hết hành vi phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả là tội phạm ít nghiêm trọng. Đa số người phạm tội khi đưa ra xét xử đều cố gắng trả đủ số tiền phạt để khắc phục hậu quả tội phạm do mình gây ra. Cho nên, so với các tội phạm khác, loại tội phạm này có xu hướng ngày càng gia tăng. Sự gia tăng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có công tác quản lý của các cơ quan thực thi pháp luật còn lỏng lẻo, các quy định của pháp luật để điều chỉnh chưa đầy đủ, còn nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho loại tội phạm này hoạt động.

Theo số liệu thống kê của cơ quan quản lý thị trường, số lượng các vụ vi phạm sản xuất, buôn bán hàng giả được phát hiện ngày một nhiều, nhưng số lượng các vụ án được thụ lý và đưa ra xét xử tại Tòa án lại không nhiều. Các đối tượng trực tiếp sản xuất hàng giả ngày một gia tăng, số lượng hàng giả ngày càng lưu thông nhiều trên thị trường (trong đó có cả hàng giả trực tiếp sản xuất ở trong nước và hàng giả từ nước ngoài vào thị trường Việt Nam). Nhưng các hình thức xử lý các hành vi phạm tội này được xử lý bằng hình thức xử phạt vi phạm hành chính và tịch thu hàng hóa, chưa áp dụng mạnh chế tài hình sự nên chưa đủ sức răn đe.

Điều này cho thấy, cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Bởi vì, việc không ngừng hoàn thiện pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là pháp luật hình sự một cách toàn diện, kịp thời sẽ lấp được những “lỗ hổng”, khiếm khuyết của pháp luật khi áp dụng trong thực tiễn, nâng cao được hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực hiện cải cách Tư pháp và đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay, việc ban hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, trong đó quy định khá chặt chẽ, cụ thể hành vi, động cơ phạm tội và khung hình phạt đối với loại tội phạm này là vô cùng quan trọng.

3. Giải pháp hoàn thiện

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật

Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội sản xuất, buôn bán hàng giả trong thời gian qua tuy đã cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tuy nhiên cũng thấy rằng các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng thể hiện sự yếu kém, thiếu sự phối hợp trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này, có nơi còn có cán bộ tiếp tay cho tội phạm này hoạt động. Qua số liệu thống kê ta thấy mức độ của tội phạm này ngày một gia tăng, nhưng mức độ xử lý của các cơ quan chức năng thì đại đa số chỉ bị xử lý hành chính, trong đó có nhiều vụ cần phải xử lý hình sự. Số vụ xử lý hình sự chưa nhiều, nhiều trường hợp phạt tù thì lại cho hưởng án treo, chưa đủ sức răn đe, chưa tương xứng với mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội này. Từ đó dẫn đến coi thường pháp luật, coi thường các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng như người thực thi pháp luật. Ngang nhiên tiến hành sản xuất, buôn bán hàng giả. Nhiều nơi có tình trạng buông lỏng quản lý một cách nghiêm trọng trong quản lý thị trường, tiêu chuẩn hàng hóa cũng như việc lưu thông, kinh doanh hàng hóa trên thị trường, dẫn đến nạn sản xuất, buôn bán hàng giả diễn ra tràn lan, không kiểm soát, ngăn chặn được. Bên cạnh đó là việc buông lỏng quản lý, không thường xuyên kiểm tra, kiểm soát…đã tạo điều kiện cho các tư thương cạnh tranh buôn bán, thu lợi bất chính, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm gây rối loạn thị trường…

Thứ hai, nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, vận động toàn dân tham gia phòng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho mọi người hiểu được tác hại của hàng giả, hiểu được quyền lợi, nghĩa vụ của mình, không tham gia sản xuất, buôn bán hàng giả và sử dụng hàng giả, tích cực tham gia cùng các cơ quan chức năng phát hiện, đấu tranh ngăn chặn.
Bên cạnh đó, cần bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng, chương trình của Chính phủ về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của công chức, viên chức, người lao động và nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan Tư pháp. Thông qua việc truyền đạt, phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan Tư pháp. Thông qua việc phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội về những quy định của pháp luật hình sự về “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”, các chế tài xử lý nghiêm minh đối với loại tội phạm này, giúp nhân dân nâng cao nhận thức, không thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, đồng thời tố giác cá nhân, tổ chức vi phạm.

Thứ ba, đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh

Phải ý thức tự bảo vệ sản phẩm của mình bằng cách đăng ký quyền sở hữu công nghiệp cho các nhãn hiệu sản phẩm, kiểu dáng công nghiệp, tem chống hàng giả…cần cải tiến quy trình công nghệ, đưa ra các mẫu mã ký hiệu riêng cho sản phẩm của mình nhằm bảo đảm tính an toàn cao, để tội phạm khó có thể làm giả, đồng thời giúp người tiêu dùng nhận biết được hàng thật và hàng giả; Bên cạnh đó, chúng ta phải tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng và tham gia các hiệp định, trao đổi thông tin về tình hình tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả nói riêng, tội phạm khác nói chung.

Như vậy, sản xuất, buôn bán hàng giả ở nước ta là một vấn đề phức tạp, tội phạm này đã và đang gián tiếp gây ảnh hưởng và tác hại lớn đối với sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng, ảnh hưởng lớn đến sự quản lý của Nhà nước trong quản lý kinh tế, kìm hãm sự phát triển và cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp phát triển của đất nước. Do vậy, đấu tranh phòng, chống nạn sản xuất, buôn bán hàng giả là nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, của toàn dân và mọi công dân trong xã hội. Việc đấu tranh phòng, chống tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả có hiệu quả là điều kiện quan trọng bảo vệ người tiêu dùng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế thị trường, phụ vụ sự nghiệp đổi mới của đất nước ta, góp phần vào sự phát triển chung của toàn xã hội.

Nguồn: Theo Tạp chí Tòa án

3993

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]