Trọng tài thương mại không có thẩm quyền mặc nhiên như Tòa án quốc gia, mà chỉ có thẩm quyền khi được các bên đồng ý và minh thị lựa chọn thông qua thỏa thuận trọng tài. Chính các bên tranh chấp, thông qua thỏa thuận này, đã trao quyền xét xử cho một hội đồng trọng tài cụ thể. Tuy nhiên, tương tự như các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực pháp lý khi đáp ứng các điều kiện hợp pháp. Vì vậy, một vấn đề quan trọng cần được đặt ra là thỏa thuận trọng tài phải tuân theo pháp luật của quốc gia nào? Để xác định tính hợp pháp, cần phân biệt hai nhóm điều kiện chính: năng lực pháp lý của các bên tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài và nội dung của thỏa thuận trọng tài.
Một thỏa thuận chỉ hợp pháp khi các bên tham gia ký kết có năng lực pháp lý đầy đủ. Theo pháp luật Việt Nam, các bên có thể thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng, nhưng việc này không bao gồm quy định về năng lực pháp lý của các bên. Năng lực này phải được xác định theo pháp luật của quốc gia mà mỗi bên mang quốc tịch hoặc đăng ký trụ sở.
Đối với thỏa thuận trọng tài, dù là một phần của hợp đồng hay văn bản riêng, nó vẫn chịu sự điều chỉnh của luật pháp liên quan đến năng lực pháp lý. Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 dẫn chiếu các quy định từ Bộ luật Dân sự 2005 để xác định năng lực của các bên, nhưng chưa làm rõ trong trường hợp có yếu tố nước ngoài, điều này có thể gây xung đột pháp luật.
Thực tiễn xét xử tại Việt Nam thường áp dụng quy phạm xung đột của Bộ luật Dân sự để xác định luật điều chỉnh. Trên bình diện quốc tế, Công ước New York năm 1958 cũng yêu cầu áp dụng pháp luật của quốc gia nơi các bên có quốc tịch hoặc trụ sở để xác định năng lực pháp lý. Như vậy, năng lực pháp lý không thể được quyết định theo luật do các bên thỏa thuận mà phải dựa trên pháp luật của quốc gia liên quan.
Liên quan đến đối tượng của thỏa thuận trọng tài, tức là loại tranh chấp mà các bên mong muốn được giải quyết thông qua trọng tài, cần xác định liệu tranh chấp này có thuộc phạm vi pháp luật cho phép trọng tài thụ lý hay không.
Theo Điều 2 Luật Trọng tài Thương mại 2010, trọng tài có thẩm quyền giải quyết:
Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Tuy nhiên, khoản 6 Điều 18 quy định rằng thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu nếu vi phạm điều cấm của pháp luật. Luật pháp không nêu rõ việc áp dụng pháp luật Việt Nam hay nước ngoài trong các tranh chấp. Với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, luật Việt Nam được áp dụng. Tuy nhiên, với tranh chấp quốc tế, việc áp dụng luật không đương nhiên và có thể liên quan đến các quy phạm về trật tự công cộng hoặc quy định bắt buộc của pháp luật.
Trong thực tế, trọng tài thường dựa trên luật của quốc gia nơi đặt địa điểm trọng tài (lex loci arbitri) để xác định loại tranh chấp có thể giải quyết. Đồng thời, trọng tài cũng cân nhắc luật của quốc gia nơi phán quyết sẽ được công nhận và thi hành. Theo Điều 5 Công ước New York 1958, phán quyết trọng tài có thể bị từ chối thi hành nếu đối tượng tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài theo pháp luật của quốc gia nơi yêu cầu thi hành.
Theo quy định tại Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại 2010 thì hình thức của thỏa thuận trọng tài sẽ được quy định như sau:
- Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
- Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
+) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
+) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên;
+) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
+) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác;
+) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.