Theo quy định tại Điều 89 BLTTHS năm 2015, vật chứng được hiểu là “vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án, quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về vật chứng, xử lý vật chứng nhìn chung được áp dụng đúng đắn, tuy nhiên, vẫn có nhiều quan điểm, nhận thức áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ví dụ vụ án cụ thể sau:
Do cần tiền để chi tiêu nên trong khoảng thời gian từ tháng 02/2017 đến tháng 11/2018, bị can Trần Thanh B, Vũ Văn T và Giang Đình Q đã nhiều lần làm giả hồ sơ để trực tiếp hoặc nhờ người khác vay tiền của Ngân hàng MB và Ngân hàng VPBank, sau đó chiếm đoạt của các ngân hàng. Cụ thể: Trần Thanh B chiếm đoạt 790.000.000 đồng, Vũ Văn T chiếm đoạt 58.000.000 đồng, Giang Đình Q chiếm đoạt 136.000.000 đồng. Trong quá trình điều tra, Giang Đình Q đã tác động và được gia đình nộp số tiền 136.000.000 đồng cho Cơ quan điều tra để khắc phục hậu quả.
Ngày 24/6/2020, Tòa án C thụ lý hồ sơ vụ án Trần Thanh B, Vũ Văn T và Giang Đình Q bị Viện kiểm sát C truy tố về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 4 Điều 174 BLHS.
Liên quan đến số tiền 136.000.000 đồng (tiền gia đình bị can Giang Đình Q nộp để khắc phục thiệt hại do hành vi phạm tội của bị can Giang Đình Q gây ra), trong quá trình nghiên cứu, giải quyết vụ án, hiện nay có hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Số tiền 136.000.000 đồng gia đình bị can Giang Đình Q nộp để khắc phục thiệt hại do hành vi phạm tội của bị can Giang Đình Q gây ra được xác định là vật chứng của vụ án.
Bởi vì căn cứ vào quy định của Điều 89 BLTTHS, vật chứng có một số đặc trưng cơ bản như: vật chứng chứa đựng và phản ánh trong mình những sự kiện thực tế liên quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng quan trọng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể của vụ án hình sự và phải là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; những vật mang dấu vết tội phạm; đối tượng của tội phạm mà người phạm tội tác động đến; tiền và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Theo đó, số tiền 136.000.000 đồng này có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, liên quan đến mức độ gây thiệt hại của hành vi phạm tội do bị can gây ra.
Do vậy, căn cứ vào Điều 90 (Bảo quản vật chứng) và Điều 106 (Xử lý vật chứng) của BLTTHS, Viện kiểm sát C đã ra Quyết định chuyển vật chứng, tài sản từ Cơ quan Điều tra sang Cơ quan Thi hành án để giải quyết.
Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả cho rằng: Số tiền 136.000.000 đồng nêu trên không phải là vật chứng, mà chỉ là một trong những chứng cứ của vụ án.
Tại Điều 89 BLTTHS quy định về khái niệm vật chứng, thì số tiền này không phải là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, không phải là vật mang dấu vết tội phạm, cũng không phải là đối tượng của tội phạm; không có giá trị chứng minh tội phạm.
Theo đó, số tiền 136.000.000 đồng trong vụ án nêu trên chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, để từ đó xác định trách nhiệm dân sự của bị can Giang Đình Q theo quy định của pháp luật.
Như vậy, số tiền bồi thường khắc phục thiệt hại này có thể được coi là vật chứng trong vụ án hay không?
Trên đây là bài viết trao đổi của chúng tôi, kính mong quý độc giả tham gia bàn luận để làm rõ và có cơ sở để giải quyết những vụ việc tương tự có thể xảy ra./.