24/06/2020 16:57

Thông báo rút kinh nghiệm xét xử vụ án hình sự

Thông báo rút kinh nghiệm xét xử vụ án hình sự

Thông qua giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án Trương Xuân P cùng đồng phạm, phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, bị huỷ để điều tra lại, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thấy cần thông báo để VKSND địa phương trong khu vực rút kinh nghiệm chung.

1. Nội dung vụ án

Ngày 10/5/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an huyện I, tỉnh K cùng lực lượng liên ngành tổ chức khám nghiệm hiện trường vụ án “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản” tại các tiểu khu 739, 744, 749 thuộc lâm phần Công ty X, huyện I, tỉnh K thuộc địa giới hành chính xã L, huyện I, tỉnh K. Trong quá trình khám nghiệm, lực lượng chức năng đã thu giữ tang vật, gồm: 01 xe máy cày hiệu Komasu, 02 rơ - mooc trong trạng thái không hoạt động và 296 lóng, hộp gỗ. Sau khi khám nghiệm, Cơ quan điều tra giao cho Công ty X bảo quản toàn bộ vật chứng nêu trên nhằm tránh bị mất mát, hư hỏng, tránh bị tráo đổi.

Sau khi được giao bảo quản tang vật, Công ty X đã phân công cho nhân viên của Công ty X, gồm: Trương Xuân P cùng 12 thành viên khác bảo quản tang vật. Quá trình bảo quản, do tang vật ở sâu trong rừng, thời tiết không thuận lợi nên Công ty X đã xin ý kiến cấp có thẩm quyền và được đồng ý cho di chuyển tang vật là chiếc máy cày và 02 rơ - mooc về bảo quản tại tổ liên ngành thuộc thôn 9, xã L, huyện I. Do xe máy cày bị hư hỏng không di chuyển được nên Trương Xuân P được giao nhiệm vụ tìm người sửa chữa máy cày, rồi phối hợp với lực lượng chức năng di chuyển xe tang vật về địa điểm bảo quản,

Ngày 14/6/2018, Trương Xuân P liên lạc và nhờ Lê Văn N sửa chữa xe máy cày. Khi N lên hiện trường thì thấy xe máy cày to và đường đi khó, không thể kéo đi được, nên N bàn với P tìm người có máy cày giống máy cày tang vật để sửa, P đồng ý. N điện thoại cho anh Hồ Quang S để hỏi, anh S cho biết Trần Hữu M có xe máy cày giống như xe tang vật và cho số điện thoại của M để liên lạc. N điện thoại cho M để hỏi thì M đồng ý sửa xe máy cày tang vật. Sau đó, M bảo Trần Hữu Q là em ruột của M và đối tượng tên H lên kiểm tra tình trạng xe máy cày tang vật, rồi báo lại cho M.

Ngày 16/6/2018, M hẹn gặp P theo sự giới thiệu của N. Khoảng 11 giờ cùng ngày, P, M và N gặp nhau tại quán cà phê TH tại thôn 3, xã L. Sau khi uống cà phê, cả ba đến nhậu tại quán BL ở cùng thôn. Tại đây, P và M bàn bạc về việc M đưa xe máy cày của M lên để tráo đổi với xe máy cày tang vật nhưng P nói “Để về bàn với mấy anh em trong tổ công tác”. Lúc này, M đưa cho P số tiền 2.000.000 đồng thì P đồng ý cho M tráo đổi xe tang vật, sau đó cả ba ra về. Đến 15 giờ cùng ngày, P điện thoại cho N nói “Bảo thằng M sau khi xong việc thì đưa thêm 20 triệu nữa để bồi dưỡng cho mấy anh em tổ công tác”. N điện thoại cho M nói lại nội dung P đã nói, thì M đồng ý đưa thêm 20.000.000 đồng sau khi xong việc, N điện thoại cho P biết M đồng ý với yêu cầu của P.

Khoảng 20 giờ ngày 17/6/2019, M và P thống nhất đưa xe máy cày đi tráo đổi. N gọi điện bảo Q và H đang có mặt tại nơi bảo quản xe tang vật điều khiển xe máy cày tang vật hiệu Komasu, kéo theo 01 rơ - mooc ra khỏi hiện trường đi về hướng tỉnh G, còn M điều khiển xe máy cày của mình vào tổ liên ngành tại thôn 9, xã T để tráo đổi theo kế hoạch. Khi đi được một đoạn thì xe máy cày của M bị thủng lốp nên M nhờ anh Y điều khiển xe máy cày của M vào tổ liên ngành. Khi đến chốt liên ngành thuộc xã L thì ông A là cán bộ Công an huyện I đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát chặn lại không cho vào, vì không phải là xe tang vật. M bảo anh Y điều khiển xe máy cày quay lại nhưng khi đến lô cao su thì xe bị hỏng nên Y đưa xe đi cất giấu. Sau khi sự việc bị phát hiện, P báo cho anh Tống Tấn L là Phó Giám đốc Công ty X tổ chức truy tìm xe máy cày tang vật, đến 06 giờ ngày 18/6/2018 thì phát hiện, thu giữ xe máy cày tang vật tại khu vực Nông trường 705, xã K, huyện Z, tỉnh G.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07, ngày 24/6/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện I, tỉnh K, kết luận: Chiếc máy cày hiệu Komasu trị giá 157.300.000 đồng, 01 rơ - mooc trị giá 10.500.000 đồng. Tổng giá trị là 167.800.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 18/4/2019 của TAND huyện I, tỉnh K tuyên phạt bị cáo Trương Xuân P 18 tháng tù, bị cáo Trần Hữu M 14 tháng tù, bị cáo Lê Văn N 12 tháng tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bản ản tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, các bị cáo Trương Xuân P, Trần Hữu M, Lê Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Trước khi xét xử phúc thẩm, các bị cáo tự nguyện rút đơn kháng cáo, nên TAND tỉnh K ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

VKSND tỉnh K có báo cáo đề nghị xem xét lại bản án hình sự sơ thẩm nêu trên.

Ngày 16/01/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 09/QĐ-VC2, đề nghị Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, huỷ Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 18/4/2019 của TAND huyện I, tỉnh K và các Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh K để điều tra lại.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2020/HS-GĐT ngày 16/4/2020, Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.

2. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm

Bị cáo Trương Xuân P là người có trách nhiệm, được giao nhiệm vụ bảo quản tang vật là xe máy cày Komasu, nhưng vì động cơ vụ lợi cá nhân đã nhận 2.000.000 đồng của bị cáo Trần Hữu M, để đồng ý cho M đánh tráo xe tang vật vụ án. Sau đó, bị cáo P tiếp tục thông qua bị cáo N đòi bị cáo M phải đưa thêm 20.000.000 đồng sau khi xong việc. Hành vi của bị cáo P đủ yếu tố cấu thành tội “Nhận hối lộ” theo quy định tại Điều 354 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Trần Hữu M và Lê Văn N không có chức vụ, quyền hạn trong việc bảo quản xe tang vật, nên không thoả mãn điều kiện về chủ thể của tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Bị cáo M thấy xe có giá trị cao hơn, nên đưa 2.000.000 đồng cho bị cáo P và hứa hẹn sẽ đưa thêm 20.000.000 đồng cho bị cáo P sau khi xong việc. Hành vi của bị cáo M đủ yếu tố cấu thành tội “Đưa hối lộ” theo quy định tại Điều 354 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Lê Văn N là người môi giới để bị cáo P và bị cáo M gặp nhau, trao đổi, đưa và nhận hối lộ số tiền 2.000.000 đồng. Sau khi bị cáo P điện thoại cho bị cáo, bảo bị cáo M phải đưa thêm 20.000.000 đồng, thì bị cáo đã điện thoại thông báo ý kiến của bị cáo P cho bị cáo M. Khi bị cáo M đồng ý thì bị cáo điện thoại cho bị cáo P biết. Hành vi của bị cáo N đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới hối lộ” theo quy định tại Điều 365 Bộ luật hình sự.

Toà án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” là không đúng tội danh của các bị cáo.

Nguồn: Tạp chí Kiểm sát

1442

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: [email protected]